TCCSĐT
- Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất
yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quỹ đạo chung đó. Tuy nhiên, xét về cả phương diện lý
luận lẫn thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay vẫn còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết.
Khái quát nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính thức
đưa vào văn kiện Đại hội VII của Đảng, trong đó nêu rõ: “Quốc hội cần
hướng vào việc thực hiện hai yêu cầu cơ bản: Một là, xây dựng Nhà nước
pháp quyền, Nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ
đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý
mọi mặt xã hội văn minh, tiến bộ; hệ thống pháp luật đó là cơ sở bảo đảm
cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực
thi có hiệu quả, là một nhân tố trọng yếu làm cho các quan hệ xã hội của
chúng ta trở nên lành mạnh hơn. Hai là, bảo đảm quyền lực và hiệu lực
trên thực tế của Quốc hội, do Hiến pháp quy định”(1).
Từ
Đại hội VII đến Đại hội VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nhà nước pháp quyền đã có bước phát triển. Nếu như ở Đại hội VII, Đảng
ta mới chỉ xác định yêu cầu phải xây dựng nhà nước pháp quyền và mới chỉ
định hình được rằng, đó là nhà nước có năng lực định ra một hệ thống
luật pháp đồng bộ để quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thì đến Đại hội
VIII, Đảng ta lại xác định thêm tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà nước
pháp quyền, tức là chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Ở đây, chúng ta thấy bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về
nhà nước pháp quyền là ở chỗ đã đề cao tính pháp chế, coi đó là đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng coi trọng khía cạnh
đạo đức như một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa.
Tại
Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và xác định bản chất của nhà nước, đó là của dân, do dân
và vì dân. Đồng thời với chủ trương tăng cường pháp chế, các Nghị quyết
của Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân chủ - là cơ sở chính trị - xã
hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn về cơ sở kinh tế -
chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dựa trên
bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Chủ
trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã
được Đảng ta khẳng định lại ở Đại hội X: “Xây dựng cơ chế vận hành của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền”(2). Như vậy, ở đây chúng
ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy lý luận, có lẽ
điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với
các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà nước, bởi vì ở
các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến là “tam
quyền phân lập”. Việc Đảng ta xây dựng cơ chế phân công, phối hợp giữa
các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo
đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, chính là dựa trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và pháp luật.
Chủ
trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với những đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại Đại
hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao năng
lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”(3).
Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể thấy:
Một là,
Đảng đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng
và Nhà nước.
Hai là,
nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: là phương thức tổ chức
dân chủ quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực
hiện quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể
trong xã hội.
Ba là,
nhất quán chỉ rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Bốn là,
nhận rõ đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp chế,
khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã
hội, tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội.
Năm là,
xác định được cơ chế vận hành của các cơ quan quyền lực nhà nước: quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sáu là,
thấy rõ yêu cầu mở rộng dân chủ đồng thời với việc tăng cường kỷ luật,
kỷ cương, giáo dục đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Bảy là,
khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Điều đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định
từ lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết luận chắc
chắn được rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến
nay. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai
cấp công nhân, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh
tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành mọi nhiệm vụ
của mình và giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Bên
cạnh những kết quả đã đạt được về mặt lý luận, thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới đã
bộc lộ không ít những vấn đề cần phải giải quyết cả về lý luận lẫn thực
tiễn.
Về phương diện lý luận, cần giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, cần xác định rõ những đặc trưng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng.
Một số ý kiến cho rằng, nếu chỉ dựa trên cơ sở tính pháp chế và dân chủ
thì bất cứ nhà nước pháp quyền nào cũng như vậy. Còn nói đến cơ sở kinh
tế của nhà nước pháp quyền của chúng ta là ở tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường thì vẫn chưa rõ và có phần khiên
cưỡng, thiếu sức thuyết phục. Trong khi chính tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng chưa được được làm rõ về mặt lý
luận, thì có nên chăng lấy điều đó để lý giải cho một vấn đề chưa rõ
khác? Hơn nữa, khi nền kinh tế - tức cơ sở hạ tầng mới chỉ là định hướng
xã hội chủ nghĩa, thì nhà nước - tức kiến trúc thượng tầng có thể gọi
là xã hội chủ nghĩa được không hay cũng chỉ mang tính định hướng xã hội
chủ nghĩa? Đó là vấn đề đặt ra cần được lý giải một cách khoa học. Chính
vì trong lịch sử chưa từng có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
đích thực, cho nên trong lý luận về nhà nước pháp quyền vẫn còn một mảng
trống mà chúng ta cần bổ sung và phát triển.
Hai
là, cần làm rõ cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Cần làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, sự chế ước lẫn
nhau giữa các nhánh quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị
lạm dụng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tránh chồng chéo cũng như
tránh lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ba là, làm sáng tỏ hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Vấn đề đặt ra là chỉ ra được phạm vi tác động của Đảng cầm quyền đối
với các cơ quan quyền lực nhà nước, chỉ rõ sự tối cao của pháp luật,
tránh sự can thiệp tùy tiện của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan
quyền lực nhà nước, tránh sự bao biện, ôm đồm, không tôn trọng luật
pháp.
Bốn
là, làm rõ cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân, của
Mặt trận, của các đoàn thể chính trị - xã hội đối với hoạt động của Nhà
nước. Sở dĩ vấn đề này được đặt ra là vì, mọi quyền hành chỉ thuộc
về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp
giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của hội đồng
nhân dân và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi
hoạt động của các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Phải có cơ chế
thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của
mình đối với các đại biểu mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu
gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân
dân.
Năm là, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.
Mặc dầu trong gần 30 năm đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã có
nhiều đổi mới trong lĩnh vực lập pháp, song hệ thống luật pháp của
chúng ta cho đến nay vẫn tỏ ra chưa theo kịp thực tiễn và còn nhiều bất
cập. Do vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu
đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra một cách cấp thiết hơn, nhằm xây
dựng hệ thống luật pháp của Việt Nam một cách hoàn chỉnh và ổn định hơn,
làm cơ sở cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi
mới tư duy pháp lý cần hướng đến giải quyết những nhiệm vụ như xác định
mô hình luật pháp của nước ta; nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm trong
và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý,
để tiếp thu có chọn lọc các giá trị và kinh nghiệm trong lĩnh vực này;
đổi mới công tác kế hoạch lập pháp; thay đổi quan niệm về quy mô các đạo
luật, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều
chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây
dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương
thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật
ít điều khoản không chỉ được thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây
dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ
sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.
Về phương diện thực tiễn, cần giải quyết một số vấn đề như:
Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nghĩa là xây dựng và phát triển kinh tế bền vững.
Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc
như xóa đói, giảm nghèo, xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa
các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và
miền ngược, vấn đề tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, khám
chữa bệnh cho người nghèo…
Tăng cường kỷ cương phép nước,
phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật
mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ
của công dân; làm hàng giả, trốn, gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho
Nhà nước và nhân dân. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế,
tài chính, về cơ chế chính sách, về quản lý và sử dụng đất đai, tài sản
công, về công tác cán bộ,…
Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.
Bên cạnh việc xây dựng pháp luật, việc thực hiện pháp luật cũng có vai
trò hết sức quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp
luật có thể rất đầy đủ, hoàn thiện nhưng việc thực hiện không nghiêm
thì cũng không thể nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp quyền.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.
Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của việc thực hiện
pháp luật chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt, nhiều người
dân chưa am hiểu về luật pháp, chưa ý thức được sự cần thiết phải chấp
hành luật, hoặc do không nắm được luật nên vi phạm mà không biết. Chính
vì vậy, để tăng cường việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật,
chú trọng sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng, của các
đoàn thể chính trị - xã hội cũng như bộ máy chính quyền các cấp và cuối
cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, để mệnh lệnh hành chính
luôn được chấp hành một cách nghiêm túc và thông suốt từ trung ương đến
cơ sở.
Tăng cường hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ quan và từng đại biểu hội đồng nhân dân,
nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và
các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền cấp trên; kiểm
tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các nghị quyết
của hội đồng nhân dân.
Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức.
Đây là vấn đề được đặt ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế
những tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng,… trong các
cơ quan nhà nước. Thực tiễn cho thấy, dù hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế, quy tắc ứng xử của cơ
quan quản lý nhà nước có đạt đến độ hoàn mỹ thì cũng khó có thể đem lại
hiệu quả như mong muốn nếu như trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ,
công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng quy
chế, quy tắc ứng xử đã được thể chế hóa.
Đổi
mới và chỉnh đốn Đảng. Đây không phải là một vấn đề mới vì nó được đặt
ra một cách thường xuyên, liên tục, theo yêu cầu của thực tiễn. Tuy
nhiên, trước thực trạng yếu kém và bất cập của các tổ chức Đảng, sự
thoái hóa, tụt hậu và biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên như hiện nay, thì vấn đề đổi mới và chỉnh đốn Đảng lại được đặt ra
một cách bức thiết hơn bao giờ hết. Đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng gồm
nhiều nội dung như: Đổi mới công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo
đức cách mạng, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới công tác tổ
chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị; công tác cán bộ, công
tác kiểm tra, giám sát; công tác quần chúng,… Chỉ có tiến hành đồng bộ
những nội dung đó mới làm cho Đảng ngày càng vững mạnh hơn, đủ năng lực
lãnh đạo công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như
vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách
quan đối với Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, đây là sự
nghiệp dài lâu của toàn Đảng, toàn dân, bởi vì trong việc này còn ngổn
ngang nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết cả về phương diện lý
luận lẫn thực tiễn. Những vấn đề đó không phải dễ gì một sớm một chiều
mà giải quyết được. Để đạt tới một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
theo đúng nghĩa của nó cần có sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, sự
đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của, của toàn xã hội./.
-------------------------------------------------
Chú thích:
(1) Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 51, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, tr. 340
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 126
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 247
ThS. Trần Kim Cúc