-----------
Giá - lương - tiền hay cải cách giá
- lương - tiền hoặc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền là cuộc cải cách kinh tế
tại Việt Nam vào năm 1985 nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu - bao cấp,
chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, được thực
hiện theo Nghị quyết Trung ương 8, khóa V, Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng khi áp
dụng thì cuộc cải cách này đã đưa nền kinh tế Việt Nam vào tình trạng hỗn loạn.
Bối cảnh
Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần
thứ IV diễn ra từ ngày 4 đến ngày 20 tháng 12 năm 1978, Đảng Lao động Việt Nam
quyết nghị đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi tên nước thành Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, áp dụng mô hình kinh tế của miền Bắc từ trước
khi thống nhất cho cả nước và tiến hành kế hoạch 5 năm 1976-1980. Mô hình kinh
tế được lựa chọn đã bộc lộ những khuyết điểm ngay khi còn đang áp dụng ở miền
Bắc, khi áp dụng ở miền Nam lại càng cho thấy không phù hợp, gây ra rất nhiều
khó khăn cho các đơn vị và nhân dân. Trước thực tiễn đó, những sự thay đổi tư
duy quản lý kinh tế đã hình thành, kể cả ở cấp đầu não chính trị, cấp địa
phương, lẫn ở các đơn vị kinh tế.
Thời kỳ 1979-1982 là thời kỳ có những chuyển
biến trong tư duy về kế hoạch hóa kinh tế, về chính sách giá thu mua nông sản,
về khoán sản xuất. Kết quả là kinh tế Việt Nam thời kỳ này có những khởi sắc.
Tuy nhiên, cũng có những hậu quả tiêu cực như tình trạng tranh mua, tranh bán
đẩy giá lên cao, tình trạng kế hoạch tập trung của nhà nước bị các đơn vị kinh
tế không chấp hành do mải chạy theo kế hoạch 2 (kế hoạch liên doanh liên kết)
và kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Những mặt tiêu cực này đã
khiến hình thành chủ trương xét lại, thể hiện rõ qua Đại hội Đại biểu Toàn quốc
lần thứ V vào tháng 3 năm 1982, hội nghị lần thứ 1 (tháng 9/1982), thứ 3 (tháng
12/1982), thứ 4 (tháng 6/1983)và thứ 5 (12/1983) của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa V, chiến dịch Z-30, v.v...
Giữa lúc chủ trương uốn nắn lại được đẩy
mạnh thì Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh trước vốn là được xem là người
bảo thủ đã có những thay đổi lớn về tư duy, đặc biệt là sau khi nghiên cứu
những kết quả của các cải cách thời kỳ 1979-1982 và đi thực tiễn địa phương ở
nhiều nơi. Ông đã nêu ra ý kiến cần đổi mới và phải đổi mới triệt để tại các
hội nghị trung ương lần thứ 6, và 7 . Đến hội nghị trung ương 8 (tháng 6/1985),
Ban chấp hành trung ương đã quyết nghị tiến hành một cuộc cải cách lớn về
"giá - lương - tiền", do Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Đoàn
Trọng Truyến, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, Phó chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh chỉ đạo, với nội dung chính như sau:
- Tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất
- Thực hiện cơ chế một giá trong toàn
bộ hệ thống giá cả
- Đảm bảo tiền lương thực tế, thực sự
đảm bảo cho người ăn lương sống chủ yếu bằng tiền lương, tái sản xuất được sức
lao động.
- Xác lập quyền tự chủ về tài chính
của các ngành và các cơ sở kinh tế.
Phương án cải cách
Để triển khai thực hiện nghị quyết
của hội nghị trung ương 8 của Đảng, Nhà nước Việt Nam thành lập Ban chỉ đạo
chiến dịch cải cách giá - lương - tiền do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ
trách phân phối lưu thông Trần Phương đứng đầu. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ vừa
thiết kế vừa triển khai chiến dịch. Tháng 8 năm 1985, phương án cải cách được
đưa ra như sau:
Về giá, phải tính toán đầy đủ giá
các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá các mặt hàng Nhà nước mua của nông dân,
thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản xuất. Để tiện cho tính toán, các mức
giá trên được quy ra thóc. Còn giá thóc được xác định bình quân là 25 đồng/kg,
dựa trên tính toán thực tế của các chuyên gia. Các địa phương khác nhau thì mức
giá thóc quy đổi này có thể cao hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới
của một số vật tư, như xăng, dầu, xi măng, sắt, theo đó giá sắt 6 tăng 11,5 lần
so với mức giá cũ, giá xi măng tăng 12,5 lần.
Về lương, Ban chỉ đạo đề nghị tăng
lương thêm 20%.
Về tiền, để đáp ứng giá mới và lương
mới, phải in thêm tiền, để tổng tiền trong lưu thống là 120 tỷ đồng. Nhưng thời
điểm đó, Việt Nam không tự in được tiền mà phải nhờ nước ngoài in. In nhiều
tiền sẽ tốn thời gian. Vì lẽ đó, để in ít tiền mà vẫn có sức mua lớn, Ban chỉ
đạo đưa ra chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như
vậy 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành.
Tiến hành
Cuộc cải cách Giá - lương - tiền
được đề ra theo Nghị quyết Trung ương 8, khóa V của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì vào tháng 6 năm 1985. Giá - lương - tiền bắt
đầu được thi hành từ quyết định do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tố Hữu ký
tháng Chín năm 1985, để củng cố mãi lực của đơn vị tiền tệ Việt Nam. Đây cũng
là động lực đưa tới vụ đổi tiền năm 1985 với hối xuất 1 đồng mới ăn 1 đồng, 2
đồng, 6, đồng, 9 đồng hoặc 10 đồng cũ tùy theo thời gian ký thác tiền trong
trương mục tiết kiệm. Chủ ý việc đổi tiền là để giảm lượng tiền lưu hành và như
thế tăng giá trị của tiền nhưng cũng có những hậu quả tai hại trầm trọng là cơn
khủng hoảng kinh tế sau đó. Nhà chức trách đã suy luận sai lầm rằng bằng cách
đổi tiền với hối xuất trên, giá trị của đồng tiền sẽ tăng gấp 10 lần.
Mỗi gia đình chỉ được phép đổi lấy
2000 đồng tiền mới. Số tiền vượt con số quy định thì phải nộp vào trương mục
ngân hàng đợi nhà chức trách xét sau. Quyết định này cũng xóa sổ vốn tích trữ
của nhiều người. Hơn nữa hành động này gây ra cảnh khan hiếm tiền. Có những vụ
cơ quan phải trả lương bằng chính loại hàng sản xuất vì không có tiền trả cho
nhân công: người làm mũ thì được phát mũ thay tiền lương. Để trả lương, nhà
nước lại phải in thêm tiền với khối lượng 1,38 lần so với trước nên hậu quả là
vật giá lại tăng mạnh. Sang năm 1986 thì mức lạm phát lên đến 774,7% làm kiệt
quệ kinh tế. Riêng các nông sản, so sánh vật giá năm 1986 với năm 1976 thì tăng
2000%.
Những năm kế tiếp lạm phát tiếp tục
ở mức ba con số. Đến năm 1989 mới xuống còn hai con số.
Năm
|
Lạm phát
|
1986
|
774%
|
1987
|
323,1%
|
1988
|
393%
|
1989
|
34.7%
|
Để cung ứng nhu yếu phẩm với giá
thấp hơn, nhà nước phải mở rộng chương trình tem phiếu nhưng vẫn không đủ nên
phải hạn chế theo từng ngạch của đối tượng (công nhân hay học sinh, công chức
hay bộ đội, v.v.). Mỗi hạng được phép mua sáu loại hàng với một số lượng ở giá
nhất định gồm có gạo, thịt lợn, nước mắm, đường, chất đốt (than, củi, dầu) và
xà phòng giặt.
Áp dụng quy chế này cũng buộc nhà
nước thu mua hàng hóa từ giới sản xuất ở giá thật thấp, gây phản cảm khiến
người sản xuất muốn bán giá cao hơn phải bán bán ra chợ đen, làm thất thoát
thêm số lượng hàng ít ỏi. Nhà nông theo quy định chỉ được giữ 60% sản lượng còn
40% phải bán cho nhà nước với giá rẻ theo dạng "thu mua". Vì nhà nước
mua ở giá quá rẻ, có khi là dưới giá thành nên dân gian có câu là "mua như
cướp". Ngay cả những nông phẩm căn bản là gạo cũng thiếu hụt trầm trọng
khiến dân chúng phải ăn độn bằng những thực phẩm trước kia chỉ dùng nuôi gia
súc.
Phương thức Giá - lương - tiền lúc
bấy giờ chú trọng đến việc kiểm soát lượng tiền để kềm hãm giá mặc dù lý do vật
giá tăng là vì thiếu hàng hóa và sản xuất thấp chứ không phải vì lượng tiền lưu
hành. Mặt khác giá - lương - tiền cố ấn định giá cả và hạn chế lương bổng nhưng
cả ba khía cạnh đều thất bại, không khắc phục được lạm phát.
Rắc rối
Nhà lịch sử kinh tế Đặng Phong cho
rằng Cải cách giá - lương - tiền đã bị vỡ trận.
Thứ nhất, các đơn vị kinh tế quốc
doanh phản đối mức giá vật tư mới, cho rằng như thế quá cao và đề nghị giảm đi.
Tại hội nghị thông báo mức giá mới, các bộ trưởng đã đề nghị các mức giá vật tư
thấp hơn. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng chấp thuận rút mức giá mới
xuống khoảng 70% so với phương án của Ban chỉ đạo Cải cách.
Thứ hai, các bộ và các tỉnh (nhất là
các tỉnh phía Nam) cho rằng mức tăng lương 20% là quá ít. Một số đề nghị nâng
mức tăng lương lên 100%. Chính phủ cũng chấp nhận tăng lương 100%.
Kết quả và ý nghĩa
Chi ngân sách Nhà nước cho tiền
lương tăng vọt, nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu do giá vật tư
không tăng bằng mức Ban Chỉ đạo đề nghị. Để cứu ngân sách, tiền được phát hành
hơn rất nhiều so với kế hoạch. Lạm phát bùng nổ. Những vòng xoáy điều chỉnh giá
- lương - tiền càng làm cho lạm phát leo thang nhanh chóng trong năm 1986. Tiền
phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có. Vật tư, hàng hóa
khan hiếm. Giá bán lương thực dù tăng 10 lần vẫn không đủ bù đắp chi phí. Sản
xuất nông nghiệp sa sút. Đầu tư trong công nghiệp giảm.
Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã
hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá, người ta quay
sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá
hàng hóa
Thường thì trong một nền kinh tế thị
trường khi vật giá tăng thì sẽ kích thích sản xuất theo luật cung và cầu. Nhưng
vào thập niên 1980 ở Việt Nam vật giá tăng mà biện pháp là kiềm giá bằng cách
quy định giá nên hoàn toàn không có hiệu quả mà còn tạo thêm lạm phát.
Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến
cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về phẩm chất của nhiều mặt
hàng. Chính phủ cố điều chỉnh tình trạng suy thoái với những biện pháp giảm
lượng hàng buôn qua ngả chợ đen thì kết quả việc "ngăn sông cấm chợ"
và lùng bắt hàng "lậu", tức là mọi thứ hàng không qua tay nhà nước.
Trên đoạn đường chỉ vài cây số nhưng có thể có chục trạm gác kiểm soát hàng
hóa.
Tuy kế hoạch cải cách giá - lương -
tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá giữa cải cách với mô hình cũ, gây
ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối năm 1985 và năm 1986, song
chính sự khủng hoảng này đã làm cho các cấp các ngành nhận ra rằng đã cải cách
là phải cải cách triệt để. Mô hình cũ phải bị đoạn tuyệt hoàn toàn. Trên cơ sở
đó cùng với những biến chuyển chính trị toàn cầu như việc Khối Warszawa sụp
đổ,, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12
năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới lịch sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét