Tiết lộ của người lính Liên Xô bảo vệ bầu trời Việt Nam
http://www.tienphong.vn/the-gioi/tiet-lo-cua-nguoi-linh-lien-xo-bao-ve-bau-troi-viet-nam-624473.tpo
TPO- Hàng ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ Xô Viết tham gia trên chiến trường Việt Nam. Sự tham gia của họ được giữ bí mật tuyệt đối trên mọi phương tiện thông tin đại chúng cho đến tận ngày nay.
TPO- Hàng ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ Xô Viết tham gia trên chiến trường Việt Nam. Sự tham gia của họ được giữ bí mật tuyệt đối trên mọi phương tiện thông tin đại chúng cho đến tận ngày nay.
Tiết lộ của người lính Liên Xô bảo vệ bầu trời Việt Nam
TPO- Hàng ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan
và chiến sĩ Xô Viết tham gia trên chiến trường Việt Nam. Sự tham gia của
họ được giữ bí mật tuyệt đối trên mọi phương tiện thông tin đại chúng
cho đến tận ngày nay.
“Tiếng nói nước Nga” đã may mắn có
được dịp phỏng vấn một trong những cựu chiến binh Xô Viết, những người
đã tham gia bảo vệ bầu trời Việt Nam trước những cuộc không kích dữ dội
của Không quân Mỹ.
Ngày 30/1 hàng năm là ngày kỷ niệm
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Liên bang Xô Viết – Việt Nam.
Một trong những trang sử rực rỡ nhất của lịch sử mối quan hệ giữa nhân
dân Xô viết trước đây – Liên bang Nga hiện nay và nhân dân Việt Nam là
sự giúp đỡ quân sự vô điều kiện của Liên bang Xô Viết đối với Việt Nam
trong cuộc kháng chiến tranh chống Mỹ .
Tiếng nói nước Nga phỏng
vấn một cựu chiến binh ở Việt Nam, người đã trực tiếp tham gia các trận
đánh bảo vệ bầu trời Việt Nam – ông Nikolai Kolesnik - chủ tịch Hiệp Hội
cựu chiến binh Việt Nam trên toàn Nga, người mà từ năm 1965,đã tham gia
các trận chiến đấu phòng không chống lại các cuộc không kích ồ ạt của
lực lượng không quân Mỹ, trong vị trí của những chiến sĩ – trắc thủ tên
lửa Xô Viết.
N.Kolesnik: Sự
giúp đỡ của Liên bang Xô Viết trong những năm chiến tranh là vô cùng to
lớn và toàn diện trên mọi mặt, chỉ tính riêng viện trợ quân sự của Liên
Xô về giá trị đã lên tới khoảng hai triệu đô la một ngày cho tất cả
những năm chiến tranh.
Việt Nam đã nhận được một số lượng
rất lớn vũ khí khí tài, trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho chiến
đấu. Chỉ cần trích dẫn một vài con số: 2.000 xe tăng, 7.000 khẩu pháo và
súng cối, hơn 5.000 nòng súng, pháo phòng không các loại và các tổ hợp
kỹ thuật, 158 tổ hợp tên lửa phòng không, hơn 700 máy bay chiến đấu, 120
máy bay trực thăng , 100 tàu chiến các loại. Và tất cả khối lượng cơ sở
vật chất, vũ khí khí tài, phương tiện chiến đấu này đều là viện trợ
không hoàn lại.
Để có thể khai thác sử dụng vũ khí
trang bị, khí tài chiến đấu, cán bộ chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam
phải được học tập và huấn luyện kỹ năng. Chính vì điều này, các chuyên
gia, cố vấn quân sự và kỹ thuật viên được gửi đến Việt Nam.
Một trận địa tên lửa SAM-2 - nỗi khiếp đảm của không quân Mỹ. |
Từ tháng 7/1965 đến hết năm 1974,
thực hiện nhiệm vụ quốc tế vô sản tại Việt Nam đã có sự tham dự của
6.500 sĩ quan và tướng lĩnh, cũng như hơn 4.500 hạ sĩ quan, chiến sĩ của
lực lượng vũ trang Xô Viết. Ngoài ra, các trường quân sự và các học
viện của Liên Xô đã đào tạo các cán bộ nòng cốt của Lực lượng vũ trang
Việt Nam - hơn 10.000 người.
Người ta nói rằng, vũ khí trang bị, được viện trợ từ СССР vào Việt Nam đã lỗi thời?
N. Kolesnik: Vào
thời điểm đó là hiện đại nhất. Ví dụ, với máy bay chiến đấu "MiG-21" -
các phi công Việt Nam bắn rơi "F-105" “F4 "pháo đài bay "B-52". Trong
tất cả những năm chiến tranh, các máy bay tiêm kích của Quân đội nhân
dân Việt Nam bắn hạ 350 máy bay địch. Không quân Việt Nam tổn thất ít
hơn rất nhiều, chỉ có 145 máy bay.
Trong lịch sử không quân nhân dân
Việt Nam có những phi công - ace, chiến công của họ có tới 7, 8 và 9
máy bay Mỹ bị bắn hạ. Đồng thời, thành tích của phi công ace – pilot Mỹ
cao nhất Charles B. DeBellevue ở Việt Nam chỉ có 6 lần chiến thắng
trên không. Trong các trận không chiến ở Việt Nam, các tên lửa của Liên
Xô S-75 "Dvina" là có khả năng đánh trúng mục tiêu trên không ngay cả ở
độ cao 25 km.
"Đây thực sự là các đầu đạn nguy
hiểm nhất được phóng lên từ mặt đất từ trước đến nay vào mục tiêu là
những máy bay chiến đấu", theo tuyên bố của tạp chí Mỹ
"MilitaryTechnology - Kỹ thuật quân sự" thời điểm chiến tranh.
Lực lượng bộ đội tên lửa phòng
không Việt Nam, được đào tạo và huấn luyện của các chuyên gia, cố vấn
quân sự Xô Viết, đã bắn hạ hơn 1.300 máy bay chiến đấu Mỹ, trong đó có
54 máy bay ném bom chiến lược B-52. Mỗi chiếc máy bay đó mang trên mình
nó 25 tấn bom, mỗi chiếc B-52 có thể tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn mọi
sự sống và các công trình xây dựng trên một diện tích bằng 30 cái sân
vận động bóng đá.
Không lực Mỹ ném bom thường xuyên
trên tuyến đường vận tải Hồ Chí Minh và tất cả các khu công nghiệp, các
thành phố lớn của miền Bắc Việt nam, chúng thường xuyên bay trên các độ
cao mà súng phòng không các cỡ nòng không thể với tới được.
Sau những chiến thắng đầu tiên của
tên lửa phòng không, các phi công Mỹ buộc phải hạ độ cao để tránh tên
lửa, nhưng lại rơi vào lưới lửa dày đặc của súng phòng không.
Nhiều 'pháo đài bay' B-52 đã bị bắn hạ trên bầu trời Việt Nam. |
Khi có sự xuất hiện của các tên lửa
phòng không “Dvina” (tên lửa SAM-2), các phi công Mỹ bắt đầu từ chối
nhiệm vụ bay vào không phận Miền Bắc Việt Nam oanh tạc. Bộ tư lệnh lực
lượng không quân và hải quân Mỹ phải nhanh chóng đưa ra các giải pháp
khẩn cấp như nâng mức tiền bay cho mỗi phi vụ không kích, liên tục thay
đổi lực lượng các phi đoàn trên các tàu sân bay. Tại Việt Nam đã xuất
hiện một mô hình huấn luyện đào tạo chưa từng có trong lịch sử huấn
luyện quân sự, các chuyên gia giảng dạy và các học viên thực hành bằng
trận đánh thực tế, mục tiêu địch thực sự.
Trong những ngày tháng đầu tiên của
lực lượng tên lửa phòng không. Trên các trận địa tên lửa phòng không,
các sĩ quan Xô Viết cố vấn giới thiệu tác chiến, các sĩ quan tên lửa
Việt Nam học ngay trên xe điều khiển và cùng rút kinh nghiệm.
Bài học đầu tiên thật dữ dội đối
với không lực Mỹ - vô tình trở thành giáo cụ và quân xanh thực tiễn.
Ngày 24.07.1965, 4 máy bay F-4 "Phantom" lúc đó đang trên đường bay
không kích Hà Nội, trên độ cao mà các khẩu đội pháo phòng không không
với tới được. Các đơn vị tên lửa đã khai hỏa và bắn hạ 3 trong số 4
chiếc. Ngày 24.07 trở thành ngày truyền thống của Bộ đội tên lửa phòng
không Việt Nam.
Ông có nhớ trận chiến đấu đầu tiên mà ông tham gia? Khi nào và kết quả của nó?
N. Kolesnik: Ngày 11/8/1965,
chúng tôi lên vị trí chiến đấu 18 lần khi có báo động. Và địch không
bay vào khu vực tác chiến - không có kết quả. Cuối cùng, vào lúc đêm
khuya, trận địa của tiểu đoàn đã phóng 3 tên lửa bắn rơi 4 máy bay
địch. Tiểu đoàn một và tiểu đoàn ba thuộc Trung đoàn tên lửa phòng không
Việt Nam, nơi tôi phục vụ trong đêm đó đã bắn rơi 15 máy bay địch.
Không quân Mỹ chắc chắn sẽ săn tìm các đơn vị tên lửa của các ông?
N. Kolesnik: Tất
nhiên rồi, các trận địa tên lửa được thay đổi sau mỗi trận đánh. Không
có cách nào khác, nếu quân địch phát hiện ra trận địa tên lửa, ngay tức
khắc sẽ tấn công dồn dập bằng tên lửa và bom các loại. Người Mỹ bằng mọi
cách cố gắng chế áp các hoạt động tác chiến của các đơn vị tên lửa, gây
nhiễu, sử dụng tên lửa Shrike chống radar điều khiển. các nhà thiết kế,
chế tạo tên lửa cũng phải nhanh chóng phân tích, đánh giá và hoàn
thiện, nâng cấp tên lửa và các trang thiết bị, khí tài tác chiến.
Ông có dịp nào được gặp các tù binh – phi công Mỹ?
N. Kolesnik: Chưa
bao giờ được nhìn thấy. Vả lại sự có mặt của chúng tôi tại Việt Nam
được giữ bí mật tuyệt đối. Chỉ cần biết rằng, trong suốt thời gian công
tác, chúng tôi chỉ được mặc đồ dân sự, không có vũ khí cá nhân và hoàn
toàn không có giấy tờ gì. Mọi giấy tờ tùy thân được lưu giữ tại Đại sứ
quán.
Cấp trên đã thông báo thế nào về nhiệm vụ phải bay đến Việt Nam, và ông đã nói thế nào ở nhà?
N. Kolesnik: Tôi
phục vụ trong trung đoàn phòng không thủ đô Moscow. Trung đoàn trưởng
thông báo rằng chúng tôi được đề nghị điều động đi công tác ở một đất
nước với "khí hậu nhiệt đới rất nóng." Gần như tất cả mọi người đều
đồng ý, và những người đi vì lý do gì, không muốn đi, thì sẽ không
được đi. Tôi cũng đã nói như vậy khi ở nhà.
Điều gì gây ấn tượng cho ông nhất – một chàng trai trẻ - khi lần đầu tiên đến Việt Nam?
N. Kolesnik: tất cả đều gây ấn tượng mạnh; Mội trường tự nhiên xung quanh, khí hậu nhiệt đới, những người dân, hầm tránh bom – chỗ mà chúng tôi hay phải chui vào mỗi khi có báo động. Chỉ thị và hướng dẫn nhận được ở Moscow là đào tạo và huấn luyện các trắc thủ tên lửa Việt Nam, nhưng trên thực tế, phải giảng dạy và huấn luyện ngay trên trận địa, trong xe điều khiển, hàng ngày, dưới những trận không kích không ngừng nghỉ của Không quân Mỹ. Các đồng chí Việt Nam là những người kiên trì – họ học rất nhanh và thu thập rất nhanh kinh nghiệm tác chiến. Tôi cũng học được vài câu khẩu lệnh và vài câu nói phổ dụng bằng tiếng Việt.
N. Kolesnik: tất cả đều gây ấn tượng mạnh; Mội trường tự nhiên xung quanh, khí hậu nhiệt đới, những người dân, hầm tránh bom – chỗ mà chúng tôi hay phải chui vào mỗi khi có báo động. Chỉ thị và hướng dẫn nhận được ở Moscow là đào tạo và huấn luyện các trắc thủ tên lửa Việt Nam, nhưng trên thực tế, phải giảng dạy và huấn luyện ngay trên trận địa, trong xe điều khiển, hàng ngày, dưới những trận không kích không ngừng nghỉ của Không quân Mỹ. Các đồng chí Việt Nam là những người kiên trì – họ học rất nhanh và thu thập rất nhanh kinh nghiệm tác chiến. Tôi cũng học được vài câu khẩu lệnh và vài câu nói phổ dụng bằng tiếng Việt.
Vấn đề gì là khó khăn nhất ở Việt Nam?
N. Kolesnik: Thời
tiết nóng và độ ẩm rất cao là điều khó khăn nhất . Ví dụ: sau 40 phút
nạp chất ô xy hóa vào tên lửa trong bộ quần áo cao su đặc chủng, chúng
tôi gầy đi đến 1 kg trọng lượng cơ thể.
Thế hệ trẻ Việt Nam thể hiện mối quan tâm thế nào đối với cuộc chiến tranh và sự tham gia của các ông trong cuộc chiến?
N. Kolesnik:
Những cựu chiến binh Việt Nam thể hiện sự kính trọng và tình đồng chí
vô cùng to lớn với chúng tôi. Chúng tôi cùng nhớ lại những ngày tháng
khói lửa, khó khăn gian khổ và những chiến công chung của tình đồng chí.
Thế hệ trẻ thực tế hơn, họ với sự quan tâm và tò mò đặt câu hỏi cho
chúng tôi về những trận đánh cũng như những chi tiết, những khía cạnh
khác nhau của cuộc chiến tranh.
Phi công Mỹ bị bắt sống. |
Hiện nay trên đất nước chúng ta
có nhiều quan điểm khác nhau về sự tham dự của Liên bang Xô Viết trong
các cuộc xung đột nằm ngoài biên giới lãnh thồ. Ông đánh giá thế nào sự
tham dự của mình trong chiến tranh Việt Nam?
N. Kolesnik: Đối
với tôi cho đến tận bây giờ, đó là những ngày tháng đáng ghi nhớ nhất và
đáng sống nhất trong cuộc đời. Tôi và những đồng chí của tôi, Xô viết –
Việt Nam đã tham gia vào những sự kiện lịch sử hùng tráng nhất và đã
rèn lên chiến thắng – bằng cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tôi vô cùng tự hào là đã mang nhiệt
huyết và sức lực của mình đóng góp cho cuộc đấu tranh giành độc lập của
dân tộc Việt Nam và có một phần công sức trong công tác xây dựng Lực
lượng tên lửa phòng không Anh hùng của Việt Nam.
Trịnh Thái Bằng
Nguồn: Tiếng nói nước Nga
Nguồn: Tiếng nói nước Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét