Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2016

Tư liệu: Con đường đối thoại của TGM Nguyễn Kim Điền

28- Con đường đối thoại của TGM Nguyễn Kim Điền
Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005

(trích: 1975-2005 Con đường đối thoại của các Giám mục Việt Nam)

http://ttntt.free.fr/archive/MonseigeurNKDIEN4.html

 

TÓM LƯỢC


    Từ khi đảng CSVN thống lãnh đất nước, có không một đường hướng của hàng Giáo phẩm Công giáo đối với Chinh quyền toàn trị ? Trả lời “không” hay “có” đều dễ bị phản bác. Điều nhiều người có thể đồng ý đó là các giám mục miền Nam, rồi cả các giám mục miền Bắc chủ trương nhìn nhận thực tế chính trị, sẵn sàng hợp tác và đối thoại với chính quyền nhằm phục vụ công ích.
    Nhưng trước thái độ cởi mở của Giáo phẩm Công giáo, Chính quyền từ khước đối thoại, dùng Công an, Mặt trân Tổ quốc và nhóm Công giáo yêu nước để áp đặt chính sách đàn áp tôn giáo rất khắc nghiệt đã thực hiện tại miền Bắc.
    Trước sự kiện này, có những vị giám mục kiên vững đối thoại một cách nghiêm túc, có những vị giữ yên lặng (một sự yên lặng không nhất thiết thụ động), có những vị mềm dẻo tới mức khó phân biệt giữa khoan nhượng và nhượng bộ. Vì không thể và cũng không có khả năng đi vào chi tiết, trong bài này chúng tôi chủ yếu đề cập đến những vị đứng đầu 3 giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Sài Gòn và HĐGMVN. 
    Nói chung, tuy có những khác biệt cá nhân, nhưng trong chiều sâu có một sự đồng thuận nào đó -một cách đối phó ôn hoà nhưng bền bỉ- phản ánh nếp sống đức tin có khi mộc mạc nhưng sâu sắc, âm thầm nhưng thiết thực của cộng đoàn công giáo.
    Sự đồng thuận ấy biểu lộ mãnh liệt qua vụ Phong Thánh 117 Chân Phúc Tử đạo Việt Nam, năm 1988, điểm cao của sự căng thẳng (để khỏi nói là mâu thuẫn) giữa Chính quyền và Giáo hội Công giáo.
    Sau vụ này, Chính quyền đổi thái độ vì nhận ra rằng cơ cấu tổ chức chặt chẽ của Giáo hội Công giáo không chỉ là một cơ cấu xã hội. Nó còn là và trước hết là dạng thái xã hội của một niềm tin. Cơ cấu xã hội có thể lũng đoạn, phá huỷ. Lòng tin không dễ gì lay chuyển. Chính quyền đã nhận ra điều đó và chấp nhận liên hệ trực tiếp với các giám mục.
    Từ năm 1989 tới nay, song song với những cuộc đàm phán giữa Vatican và Hà Nội, có cuộc đối thoại khó khăn giữa Nhà nước độc tài và hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam. Cuộc đối thoại ấy diễn ra khá thất thường, ‘en dents de scie’, lúc lên lúc xuống. Dĩ nhiên, chính quyền giữ vai trò chủ động, lúc đóng lúc mở, tuỳ hứng, tuỳ nơi, tuỳ đối tượng.
    Chủ thể đối thoại, về phía Giáo phẩm Công giáo, là HĐGMVN. Nhưng cũng là cá nhân từng giám mục, nhất khi một giám mục có một vị trí cao trong hàng giáo phẩm thì tiếng nói của một cá nhân có trọng lượng lớn không kém tập thể HĐGM.
    Khi HĐGMVN lên tiếng, trong các Thư chung chẳng hạn, thì tương đối có sự thống nhất, nhưng sự hiệp nhất này không che giấu nổi những khuynh hướng khác nhau, thậm chí khác biệt giữa các giám mục. Âu cũng là nét tự do cố hữu của người công giáo (rất tuân phục Hội Thánh nhưng rất tự do con cái Chúa) ? Cũng có thể là do chính quyền khéo thao túng bằng những biện pháp tinh vi, xảo trá. Kết quả, ba mươi năm sau, mặc dầu những giằng co và căng thẳng tồn đọng, tiếng nói của hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam có trọng lượng hơn và được chính quyền nể vì hơn..

***
    Sau hiệp định Genève, một triệu người miền Bắc tản cư vào Nam. Phần lớn là công giáo. Trong số người công giáo, tỷ lệ giám mục, linh mục, tu sĩ lớn hơn giáo dân nhiều[1]. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mấy triệu người bỏ nước ra đi. Trong số này, công giáo chiếm một tỷ lệ nhỏ (15% ?). Đặc biệt không có một giám mục nào ra đi, kể cả Đc Phạm Ngọc Chi, nguyên là Giám mục coi sóc Giáo phận Bùi Chu. Hơn nữa, HĐGM/VN miền Nam chủ trương rõ ràng không tị nạn. Đây là sự kiện then chốt, tượng trưng cho một thái độ : đảm nhận thực tại ; và biểu hiện một tinh thần : tinh thần đối thoại. Ba mươi năm qua, thái độ ấy, tinh thần ấy đã biến chuyển ra sao, đã gặp những trở ngại nào và thu lượm được những thành quả gì cho Giáo hội, cho Đất nước ?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi đề nghị phân tách một số sự kiện và văn bản mà những người quan sát đều có thể biết đến. Xin bỏ ngoài những lời đồn thổi về những hành động, những liên hệ bí mật ; vì tính cách thất thiệt của chúng và vì, theo thiển ý, dù có thiệt đi nữa, cũng không mang tính quyết định.

    1. NHỮNG PHẢN ỨNG BAN ĐẦU


    Sau khi Miền Nam tan rã như chim vỡ tổ, không có ngay một phản ứng chung của HĐGM miền Nam. Tình thế lộn xộn, nhớn nhác lúc đó không cho phép. Tuy nhiên phản ứng mau lẹ của hai vị đứng đầu hai Giáo tỉnh miền Nam, Tổng Giám mục Huế, Đc Nguyễn Kim Điền và Tgm Sài gòn, Đc Nguyễn Văn Bình đủ đại diện cho toàn thể hàng Giáo phẩm công giáo miền Nam.

    1.1. Đc Nguyễn Kim Điền, Tgm Huế.

    Ngày 30 tháng tư quân đội miền Bắc mới vào Dinh Độc lập, nhưng sáng ngày 26 tháng 3, cờ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã treo trên Thành phố Huế rồi. Ai cũng biết, thực chất là quân đội miền Bắc, nhưng Hà Nội vẫn còn dùng con bài Mặt trận Giải phóng để tránh tiếng xâm lược miền Nam. Đức cha Điền lúc đó đang ở Sài gòn, hối hả ngược dòng người tị nạn chạy về Huế.

    Lời phát biểu ngày 09-04-1975

    Trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế ngày mồng 9 tháng 4, Đc Điền đã nói lên cảm tưởng của mình. Xin lấy lại toàn văn (chúng tôi ấn mạnh một số từ) :
    “Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đã chấm dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế.
    “Còn tự do thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.
    “Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.
    “Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hoà bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa ”.
    Lời phát biểu ngắn, rất ngắn. Nhưng nghiêm túc và đầy đủ. Chiến tranh chấm dứt. Tổng giám mục Huế không nói chuyện thắng bại, chỉ mừng cho những mạng sống con người được bảo tồn. Vần đề còn lại là tự do, dân chủ, nhân quyền ; chính quyền mới bảo đảm. Thể theo sự bảo đảm ấy, người công giáo vui mừng, nguyện tích cực hợp tác để chu toàn bổn phận đối với Thiên chúa và Tổ quốc : xây dựng một xã hội tình thương, tự do, dân chủ.

    Thư ngày 01-04-75


    Trước đó, ngày 01 tháng 04, Đc Điền đã lên tiếng trong một bức thư gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân của Tổng Giáo phận.
    Lá thư nhìn nhận “Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay”. Đã qua rồi, thời gian của hãi hùng, lo âu, thù hận, chém giết. Mời gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân “hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt”. Kêu gọi hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác”, “đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào, không phải chỉ chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn trao nhường những gì mình chỉ có vừa đủ”. Nói một cách khác, “phaỉ cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng”. “Nhưng không phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu”. Cụ thể : “Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy sống Phúc Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng”. Cho đến tận cùng, nghĩa là nếu cần, phải sẵn sàng “thí mạng sống mình”. 
    Tóm lại, vui mừng vì chiến tranh chấm dứt ; đón nhận, phục tùng chính quyền mới ; hoan hỉ phục vụ và cộng tác với mọi người thiện chí để xây dựng lại đất nước ; nhưng đồng thời tuyệt đối trung thành với Phúc Âm của Chúa Giêsu. Đức cha Điền không nói gì đến Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chính quyền mới, trên danh nghĩa vẫn là Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tuy nhiên, “thế giới huynh đệ đại đồng” ám chỉ một thứ ước mơ, một hứa hẹn trần thế nào đó… một điểm gặp gỡ có thể có giữa những con người thiện chí.

    2. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CỦA HÀNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

    3. CHÍNH QUYỀN TỪ KHƯỚC ĐỐI THOẠI

    4. CÁC GIÁM MỤC CHỌN CON ĐƯỜNG ĐỐI THOẠI

    4.4. Đối thoại kiểu Đc Nguyễn Kim Điền


    Trong thư gửi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đề ngày 25-3-1988, Đc Điền viết : “Năm 1967, khi tham dự cuộc họp quốc tề Caritas Internationalis tại Rôma, một nhà báo người Ý hỏi tôi: “Ông nghĩ thế nào về Đảng cộng sản Việt Nam?” Tôi trả lời “Là giám mục công giáo, tôi không thể theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng người cộng sản Việt Nam là anh em của tôi”. Hôm sau, báo đăng lời đó với hàng tít to. Năm 1980, cụ Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ tại Hà Nội nói với tôi: “Ông Tổng giám mục tuyên bố câu đó hồi năm 1967 thì chỉ có hại cho ông thôi, vì lúc đó CIA thống trị tại phía Nam và chính phủ nào ở đó cũng là chính phủ chống cộng”. Tôi không biết anh nhà báo phỏng vấn tôi năm đó hiện nay còn sống hay chết và ở đâu? Anh sẽ nghĩ thế nào nếu anh biết được hoàn cảnh hiện tại của tôi? Còn lập trường của tôi từ năm 1967 đến nay vẫn trước sau như một”.
    Hoàn cảnh hiện tại của Đc Điền lúc đó là từ năm 1984, sau 120 ngày bị thẩm vấn, mặc dầu là Tgm giáo tỉnh miền Trung, ngài không được phép đi thăm viếng các giám mục thuộc giáo tỉnh, không được phép đi họp hội nghị thường niên của HĐGM/VN, không được phép ra khỏi chu vi Tp Huế để thăm các giáo xứ và làm các công tác căn bản của một giám mục. Sự thể ra thế chính vì lập trường của ngài không thay đổi. Chiến tranh đã chấm dứt ! Đc Điền đón nhận hoà bình như một hồng ân. Ngài là vị giám mục Việt Nam đầu tiên kêu gọi mọi người hợp tác với chính quyền mới, một chính quyền có đấy, như bất luận chính quyền nào.  Chính phủ cách mạng lâm thời tuyên bố tự do tôn giáo, Tổng giám mục Huế đề nghị hoà giải dân tộc để xây dựng lại đất nước, và trước mắt, hàn gắn những thương đau mà Huế là tang chứng bi thảm nhất. Tâm thư ngày 1-4-75 gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân Tổng giáo phận Huế cũng như lời phát biểu ngày 9-4-75 trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế cho chúng ta hình ảnh một vị chủ chăn cởi mở, khiêm nhu, nhưng táo bạo, hết lòng phục vụ, dấn thân vì công ích, vì Đạo Chúa, nhưng cũng chính vì thế, luôn luôn bênh vực lẽ phải và tuyệt đối trung thành với sứ vụ của một giám mục công giáo.
    Chính quyền mới đã sớm lột mặt nạ như mọi người đều biết. Và hai năm sau, Tgm Nguyễn Kim Điền đã lợi dụng hai cuộc họp do chính quyền triệu tập để phát lên tiếng nói của lương tâm, tiếng nói tự do. Trong khi mọi người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không dám thổ lộ, Đc Điền đã ung dung, nhẹ nhàng nói thật. Tiếng nói của ngài hoàn toàn bất ngờ, khác nào ngọn lửa bừng lên giữa đêm đen hay nhát búa giáng xuống tảng băng cứng lạnh. Tiếng nói ấy đánh thức lương tri, chấn động lòng người, truyền đi rất nhanh trong dân chúng, vượt bức màn tre của chế độ và thành tít lớn trên báo chí ngoại quốc. Không thể phân tách ở đây cuộc đối thoại nguy hiểm của Tgm Huế với chính quyền độc thoại[2]. Chúng tôi xin chỉ đề cập đến hai bài phát biểu mở đầu cho mười năm gian khổ của một công dân giám mục, vốn kín đáo, gần gũi với những con người lao động, những tầng lớp thấp kém trong xã hội hơn là những kẻ có quyền lực[3], nay bị lịch sử đẩy ra sân khấu của thời cuộc.
    Phát biểu ý kiến ngày 15.4.77 [4].
    Một buổi họp do Mặt trận Tổ quốc Bình Trị Thiên và Tp Huế tổ chức, nói là để thông báo, kỳ thực là để học tập cải tạo nhân vụ chính quyền bắt giữ 6 nhà sư của Phật giáo Việt Nam Thống nhất hệ phái Ấn Quang tại Tp Hồ Chí Minh. Được mời phát biểu, Đc Điền không đi vào nội dung[5] của sự kiện mà người của UBND Tp HCM vừa trình bày : “Cá nhân tôi, tôi không có ý kiến gì cả. Vấn đề quảng bá tin tức, cắt nghĩa lý do là nhiệm vụ của chính phủ. Tôi chỉ muốn san sẻ với các vị lãnh đạo Phật giáo những kinh nghiệm mà trước đây chúng tôi đã phải chịu trong vụ Vinh Sơn”. Rồi Đc Điền lấy giả thuyế tồi tệ nhất cho phía các tôn giáo : “Chúng tôi chắc chắn là không có ai trong buổi họp có thể chấp nhận hành động được diễn tả trong bản thông cáo của chính phủ”. Nói một cách khác, cứ cho là sự việc đã xảy ra đúng như chính quyền thông cáo (mà có ai đủ ngây thơ để tin chính quyền đây ?), cứ cho là có những kẻ dựa vào tôn giáo để xách động này nọ đi, “Sự kiện mà chính phủ vừa giải thích và trình bày cho chúng ta nghe, chỉ là một sự kiện đơn độc”. Một sự kiện đơn độc ! Như muôn vàn sự kiện tốt xấu xảy ra hàng ngày trong xã hội, có thể chạy tít lớn trên trang 1 của báo chí nhưng chẳng có gì đáng cho chính quyền các cấp phải làm rùm beng ! Và đây, tiếng sấm nổ vào lỗ tai chính quyền : “Nhiều chuyện như vậy đã xảy ra và còn sẽ xảy ra trong tương lai, nếu chúng ta không giải quyết nguyên nhân căn bản của nó. Theo thiển kiến của chúng tôi, nếu thực ra có những cộng đồng tôn giáo gây rối loạn chăng nữa, chỉ vì không có tự do tín ngưỡng. Thẳng thắn mà nói, tôi không thoả mãn với chính phủ về chánh sách tự do tín ngưỡng” Rồi ngài kể ra một loạt những hạn chế, truy bức, vu khống, mạ lỵ… Riêng người công giáo “có cảm tưởng mình là công dân hạng hai”, “trong giới công nhân, công viên chức, bịnh viện hay giáo viên, thường người công giáo được cho là tiên tiến ; nhưng chắc rồi cũng không tiếp tục làm việc được, vì là công giáo. Đi xin việc làm hoặc bị từ chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do thì được rỉ tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi nhà thờ nữa là êm xuôi”.
    Ngày 22.4.1977. Cuộc họp Góp ý kiến vào bản dự thảo “Đề cương báo cáo của Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên”. Đc Điền lấy làm vinh dự được mời tham gia đóng góp ý kiến, cám ơn Ban tổ chức và coi đây là một việc làm có tính cách cởi mở, mới mẻ “vì Đảng và Tôn giáo không đi chung với nhau”. (Cử toạ đột xuất vỗ tay !) Với tư cách là người lãnh đạo tôn giáo, Đức cha góp ý về Chính sách tôn giáo của Đảng.
    Về cách tiếp cận vấn đề tôn giáo trong bản Đề cương, đức cha thấy tôn giáo chỉ được nhắc tới 2 lần. Một lần, trong mục “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân” có nói đến “đoàn kết các tầng lớp nhân dân” trong đó có đồng bào các tôn giáo. Một lần nữa khi nói về “củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh, chính trị và trật tự xã hội” sau khi đã kể ra bao nhiêu tội phạm và các âm mưu phá hoại…”. Có người nhậy cảm thấy nói về chính sách tôn giáo trong mục này thì lo ngại, vậy “để tránh những lo âu và cảm tình không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo đối với Đảng”, Đức cha “đề nghị đem chỗ nói về chính sách tôn giáo lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. Tuy nhẹ nhàng, nhưng nhận xét trên vạch trần ý đồ của Đảng : khi Đảng nói chính sách tôn giáo, phải hiểu chính sách đàn áp tôn giáo. Nếu không, tại sao đặt tôn giáo vào mục an ninh chính trị, xã hội và xếp hoạt động tôn giáo bên cạnh những âm mưu phá hoại và mọi thứ tội phạm ? Thay vì vòng vo tam quốc, Đc Điền đặt thẳng vấn đề thiếu tự do tôn giáo với chính quyền.
Nhưng để tránh những góp ý trừu tượng, vì “ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi họp sáng nay có dặn nên góp ý vào việc lao động sản xuất và kinh tế cách trực tiếp hơn”. Diễn nôm : mọi chính sách đã có Đảng lo, góp ý này nọ là để nhất trí và học tập chính sách, thực hiện chính sách. Đc Điền hẳn cũng hiểu thế, nhưng ngài cứ coi như ông chủ toạ cuộc Hội thảo nói thật và ngài thật thà góp ý vào việc lao động sản xuất. Một cách thực sự cụ thể : “Theo tôi nghĩ, nếu có tự do tín ngưỡng thì năng xuất của đồng bào công giáo sẽ lên cao lắm”. Đức cha đơn cử một việc mới xảy ra trước đó mười ngày. Ngày Chúa nhật 10-4-1977 là ngày lễ Phục sinh của Công giáo, một ngày lễ lớn, được chuẩn bị bằng cả một tuần trước. “Xã Hải Trí phải làm thuỷ lợi trong thị xã Quảng Tri. Huyện cho làm trong 10 ngày nhưng xã rút xuống còn năm ngày để thi đua. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác vào sáng Chúa nhật. Ngày thứ bảy, thôn Trí Bửu (hầu hết là công giáo) đã đệ đơn xin xét lai cho đồng bào công giáo có giờ đi cử hành nghi lễ đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm nữa. Nhưng xã không cho (…). Có người nói với xã xin xét lại, vì nếu đồng bào họ không tuân lệnh, thì tổn thương phần nào uy tín của chính quyền địa phương. Như hôm lễ Giáng Sinh 76, thôn Trí Bửu cũng đã không đi làm vì họ phải đi lễ. Nhưng xã cương quyết không xét lại… Thì rồi, thôn Trí Bửu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm thuỷ lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Ngày hôm sau họ huy động cả thôn ra lảm thuỷ lợi thì thay vì năm ngày, họ làm trong hai ngày rưỡi là xong. Nghe nói xã định tuyên dương họ, nhung họ không nhận vì họ không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục Sinh hôm đó”.
    Những trường hợp cụ thể như trên cho phép khẳng định một cách khái quát : “Chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự thì những người có tín ngưỡng mới sống thoải mái, hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà thôi” ! Thực sự thì Đảng va Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng bằng văn bản, sắc lệnh. Đã có tới 5 sắc lệnh và thông tư. “Nhưng trong thực tế vẫn có những khẩu lệnh đi ngược lại với chính sách”.
    Vậy phải có tự do tôn giáo thực sự. Phải từ bỏ ý đồ tiêu diệt tôn giáo. Người cộng sản cũng biết tôn giáo “là một nhu cầu xã hội và tâm lý, bao lâu nhân dân còn cần đến, thì cứ để“. Đc Điền đồng ý : “chừng nào đồng bào không thèm đến tôn giáo nữa thì thôi, tự nhiên sẽ hết tôn giáo” Nhưng cấm thí chắc chắn không thể cấm được, vì 1) thực tế lịch sử đông tây kim cổ, nhất là gần đây bên các nước thuộc khối Liên xô đủ chứng minh điều đó. và 2) “vì tôn giáo nằm ở địa hạt khác, địa hạt tinh thần và tâm linh nên khoa học và kỹ thuất không đánh trúng được”. Đã không diệt được thì chỉ còn cách tôn trọng tư do tín ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất, còn tín ngưỡng thì ai chọn tôn giáo nào tuỳ sở thích. “Như vậy mới thoải mái, mới đoàn kết được”.
    Qua hai bài phát biểu trong vòng 10 ngày, Tgm Huế thẳng thắn trực diện với chính quyền toàn trị. Thiết tưởng, để tránh ngộ nhận, nên nói cho rõ : Đc Điền không khi nào chống lại chính quyền. Ngài chỉ bênh vực tự do tín ngưỡng thực sự thôi. Và khi đòi tự do tín ngưỡng, Đc Điền đương nhiên đòi tự do và bảo vệ những quyền con người, trong đó tự do tín ngưỡng là một quyền căn bản. Khi nói với chính quyền như thế, Đc Điền cũng nói thay cho mọi người và nói với mọi người, đặc biệt với những người đồng đạo và trong số này, hàng Giáo phẩm Công giáo. Đối thoại với chính quyền một cách thẳng thắn và nghiêm túc như thế cũng là đề nghị với các giám mục Việt Nam khác một đường lối thích ứng trong hoàn cảnh mới. Nhưng đường lối này không được sự đồng tình của tất cả mọi giám mục. Ta sẽ nhắc tới đường lối của Tgm Sài Gòn. Nhưng trước đó, xin nói về phản ứng của chính quyền sau hai bài phát biểu của Tgm Huế.
    Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Tp Hồ Chí Minh can thiệp.
    Chính quyền đã đánh giá đúng mức những lời phát biểu của Tgm Huế. Bằng chứng là ông Nguyễn Văn Chì, Chủ tịch UB MTTQ Tp HCM, gửi cho Đc Bình một bản "NHẬN ĐỊNH VỀ HAI BẢN VĂN ghi lại lời phat biểu của Tgm Nguyễn Kim Điền". Mở đầu như sau :
    "Gần đây Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp HCM được biết có luân lưu, phổ biến trong một số linh mục, tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo ở Tp HCM hai bản văn dưới có ghi lời phát biểu của ông Tgm Nguyễn Kim Điền, địa phận Huế. Hai bản văn này không những chỉ luân lưu, phổ biến trong giới Thiên chúa giáo mà còn phổ biến tới cả một giới Phật giáo và tới một số nơi khác nữa". Ông Nguyễn Văn Chì thông báo cho mọi người biết rằng hai bản văn của Đc Điền đã được phổ biến rộng rãi. Nhưng vì hình như còn nể một ông Tổng giám mục dù sao cũng được chính quyền coi là cởi mở, ông viết tiếp : "Chúng tôi chưa rõ hai bản văn này có phải đúng là của ông Tổng giám mục địa phận Huế ghi hay không ? Sự ghi chú đó có phản ảnh trung thành lời phát biểu của ông Tổng giám mục địa phận Huế hay không ? Và chúng tôi cũng chưa biết rõ việc phổ biến hai bản văn đó là có ý kiến của ông Nguyễn Kim Điền hay không ? Ai là người chịu trách nhiệm phổ biến ?". Một loạt câu hỏi vừa để chạy tội cho Đc Điền (nếu biết sám hối !), vừa đe doạ ‘người chịu trách nhiệm phổ biến’. Vì, theo ông Chủ tịch UB MTTQ Tp HCM, những ý kiến trao đổi trong hội nghị, dù đúng đắn cũng không nên đơn phương phổ biến, huống chi những ‘ý kiến sai lầm’ mà phổ biến ra ngoài ‘sẽ gây tác hại có khi rất to lớn’.
    Đe doạ xong, ông phân tách và phản bác hai luận điểm chính của Đc Điền : 1) Không có tự do tôn giáo thực sự và 2) vì thế mà có những vụ như Vinh Sơn hay Phật giáo Ấn Quang.
    Về điểm 1) ông Nguyễn Văn Chì khẳng định chính sách tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng trước sau như một của Đảng. Không có mâu thuẫn giữa văn bản và thực hành. Tuy nhiên ông công nhận còn có những thiếu sót cần khắc phục. Những thiếu sót này một phần đến từ phía “một số cán bộ cách mạng do trình độ còn non kém hoặc do chưa hết thành kiến mà làm sai đường lối chính sách”, nhưng cũng đến từ “hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai tạo ra hơn 100 năm nay”. Hơn nữa, hiện nay, bọn đế quốc “vẫn tiếp tục lợi dụng khai thác những thành kiến vốn dĩ do chúng tạo ra đó để kích động  những hành động chống phá cách mạng trong các tôn giáo ; đặc biệt trong Thiên Chúa giáo”. Cho nên, đồng bào công giáo hiện nay cần phải có sự cố gắng và nỗ lực vượt bực, vượt lên mọi trở ngại để phối hợp hành động cùng với chính quyền cách mạng và tất cả những người có thiện chí, kiên quyết đấu tranh cưỡng lại bọn phản động trong thiên Chúa giáo (…) Có thể nói đó là cuộc đấu tranh khẩn trương, gay go quyết liệt, bền bỉ trong lòng dân tộc, trong nội bộ Thiên Chúa giáo và ngay trong từng con người của mình, giữa chánh nghĩa và phi nghĩa”. Dĩ nhiên, chánh nghĩa trong lòng dân tộc là chánh nghĩa của chế độ. Vì vậy ông Nguyễn Văn Chì cũng chẳng ngần ngại nhìn nhận có công dân hạng hai : “Có thể nói thẳng, không cần gì phải giấu giếm là quả có sự phân biệt đối xử và cần có sự phân biệt đối xử với một số người không chịu cải tà quy chính”. Mà cải tà quy chính trong ngôn ngữ của chế độ phải hiểu là trở về với dân tộc ; và trở về với dân tộc phải hiểu là trở về với Cách mạng, với Đảng.
    Về điểm 2) ông Chì còn gay gắt hơn nhiều. Ông rất “tin tưởng đồng bào có đạo, cũng như các hàng giáo phẩm chân chính”. Nói cách khác, ông chỉ tin tưởng đồng bào có đạo và các hàng giáo phẩm trong chừng mực họ chân chính theo những tiêu chuẩn của chế độ. Đối với ông, càng theo Đảng, càng chân chính ; tôn giáo chân chính khi tôn giáo phuc tùng Đảng ; giáo phẩm chân chính khi giáo phẩm quỵ luỵ, luồn cúi Đảng. Đc Điền nói : “Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động này khác là vì chưa có tự do tín ngưỡng đó thôi”. Ông Chì không hiểu nổi điều đó, vì đối với ông, Đảng trước sau như một bảo vệ tự do tín ngưỡng cho những ai theo gót Đảng. Ông cho rằng luận điểm của Đc Điền chỉ “lập lại luận điệu của bọn đế quốc Pháp và Mỹ” : nhân danh tự do tín ngưỡng “để cho phép mình làm hoặc bênh vực cho những hành động bỉ ổi xấu xa nhất, phi đạo nhất (…) Những người làm như thế, bênh vực như thế không những làm mất phẩm giá của mình, mà còn làm mất phẩm giá của đồng đạo, của đạo lý mà chính tác giả hai bản văn đang tín ngưỡng. Làm như thế, là nhân danh tự do tín ngưỡng để khuyến khích mọi hành động phản cách mạng, mọi hành động xấu xa phi đạo đức”. Phản cách mạng là xấu xa, phi đạo đức. Thiện là Cách mạng, Ác là chống lại Cách mạng. Tgm Huế Nguyễn Kim Điền, theo những lời cáo buộc của ông Nguyễn Văn Chì, đã đánh mất phẩm giá của mình. Tệ hơn nữa, đã làm mất phẩm giá của đồng đạo (vẫn cái lối ‘tội’ cá nhân, trách nhiệm tập thể !) và của đạo Công giáo !
    Gần ba mươi năm sau, đọc lại những lời kết án này, thật khó hình dung nổi thái độ u mê, trâng tráo và cường bạo của Đảng cộng sản Việt Nam hồi đó.
    Qua cách lên án Đc Điền, chính quyền cộng sản đe doạ mọi tôn giáo, đặc biệt hàng giáo phẩm công giáo. Dĩ nhiên, Đc Điền không thay đổi thái độ. Giữa Nhà nước CHXHCNVN và Thiên Chúa, đương nhiên Đức cha chọn Thiên Chúa và trước những đòi hỏi phản tự do, phản nhân quyền, phản  đạo lý của Đảng CSVN, Đức cha chỉ có thể trả lời : Non possumus. Chúng tôi không thể. Và sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả. Trong lá thư gửi cho linh mục, tu sĩ và giáo dân ngày 19-10-85, Đức cha viết : “Năm 1971, tại Thượng Hội đồng giám mục Thế giới, tôi có phát biểu : “Đã có những giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh, nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vưc quyền lợi của con người không ?” Hạnh phúc thay ! Hôm nay chính tôi được Chúa gọi để chịu tù ngục, chịu chết vì bênh vực nhân quyền, công lý và công bình”
    Người ta đã bắt Tgm Huế đi làm viêc, đã chặt chân chặt tay của ngài. Những người công tác gần gũi của ngài bị thẩm vấn, bắt bớ, giam cầm như lm Nguyễn Văn Lý, lm Trần Văn Quý, nữ tu Trương Thị Lý…
    Cuối cùng, Đc Nguyễn Kim Điền đã chết một cách khả nghi tại bênh viện Chợ Rẫy ngày 8.6.1988.

    Đỗ Mạnh Tri.
    Paris 29.04.2005.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét