28- Con đường đối thoại của TGM Nguyễn Kim Điền
Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005
(trích: 1975-2005 Con đường đối thoại của các Giám mục Việt Nam)
http://ttntt.free.fr/archive/MonseigeurNKDIEN4.html
TÓM LƯỢC
Từ khi
đảng CSVN thống lãnh đất nước, có không một đường hướng của hàng
Giáo phẩm Công giáo đối với Chinh quyền toàn trị ? Trả lời “không”
hay “có” đều dễ bị phản bác. Điều nhiều người có thể đồng ý đó là
các giám mục miền Nam, rồi cả các giám mục miền Bắc chủ trương nhìn
nhận thực tế chính trị, sẵn sàng hợp tác và đối thoại với chính
quyền nhằm phục vụ công ích.
Nhưng
trước thái độ cởi mở của Giáo phẩm Công giáo, Chính quyền từ khước
đối thoại, dùng Công an, Mặt trân Tổ quốc và nhóm Công giáo yêu nước
để áp đặt chính sách đàn áp tôn giáo rất khắc nghiệt đã thực hiện
tại miền Bắc.
Trước sự
kiện này, có những vị giám mục kiên vững đối thoại một cách nghiêm
túc, có những vị giữ yên lặng (một sự yên lặng không nhất thiết thụ
động), có những vị mềm dẻo tới mức khó phân biệt giữa khoan nhượng
và nhượng bộ. Vì không thể và cũng không có khả năng đi vào chi tiết,
trong bài này chúng tôi chủ yếu đề cập đến những vị đứng đầu 3 giáo
tỉnh Hà Nội, Huế, Sài Gòn và HĐGMVN.
Nói
chung, tuy có những khác biệt cá nhân, nhưng trong chiều sâu có một
sự đồng thuận nào đó -một cách đối phó ôn hoà nhưng bền bỉ- phản ánh
nếp sống đức tin có khi mộc mạc nhưng sâu sắc, âm thầm nhưng thiết
thực của cộng đoàn công giáo.
Sự đồng
thuận ấy biểu lộ mãnh liệt qua vụ Phong Thánh 117 Chân Phúc Tử đạo
Việt Nam, năm 1988, điểm cao của sự căng thẳng (để khỏi nói là mâu
thuẫn) giữa Chính quyền và Giáo hội Công giáo.
Sau vụ
này, Chính quyền đổi thái độ vì nhận ra rằng cơ cấu tổ chức chặt chẽ
của Giáo hội Công giáo không chỉ là một cơ cấu xã hội. Nó còn là và
trước hết là dạng thái xã hội của một niềm tin. Cơ cấu xã hội có thể
lũng đoạn, phá huỷ. Lòng tin không dễ gì lay chuyển. Chính quyền đã
nhận ra điều đó và chấp nhận liên hệ trực tiếp với các giám mục.
Từ năm
1989 tới nay, song song với những cuộc đàm phán giữa Vatican và Hà
Nội, có cuộc đối thoại khó khăn giữa Nhà nước độc tài và hàng Giáo
phẩm Công giáo Việt Nam. Cuộc đối thoại ấy diễn ra khá thất thường,
‘en dents de scie’, lúc lên lúc xuống. Dĩ nhiên, chính quyền giữ vai
trò chủ động, lúc đóng lúc mở, tuỳ hứng, tuỳ nơi, tuỳ đối tượng.
Chủ thể
đối thoại, về phía Giáo phẩm Công giáo, là HĐGMVN. Nhưng cũng là cá
nhân từng giám mục, nhất khi một giám mục có một vị trí cao trong
hàng giáo phẩm thì tiếng nói của một cá nhân có trọng lượng lớn
không kém tập thể HĐGM.
Khi
HĐGMVN lên tiếng, trong các Thư chung chẳng hạn, thì tương đối có sự
thống nhất, nhưng sự hiệp nhất này không che giấu nổi những khuynh
hướng khác nhau, thậm chí khác biệt giữa các giám mục. Âu cũng là
nét tự do cố hữu của người công giáo (rất tuân phục Hội Thánh nhưng
rất tự do con cái Chúa) ? Cũng có thể là do chính quyền khéo thao
túng bằng những biện pháp tinh vi, xảo trá. Kết quả, ba mươi năm
sau, mặc dầu những giằng co và căng thẳng tồn đọng, tiếng nói của
hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam có trọng lượng hơn và được chính
quyền nể vì hơn..
***
Sau hiệp
định Genève, một triệu người miền Bắc tản cư vào Nam.
Phần lớn là công giáo.
Trong số người công giáo, tỷ lệ giám mục, linh mục, tu sĩ lớn hơn
giáo dân nhiều[1].
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mấy triệu người bỏ nước ra đi. Trong
số này, công giáo chiếm một tỷ lệ nhỏ (15% ?). Đặc biệt không có một
giám mục nào ra đi, kể cả Đc Phạm Ngọc Chi, nguyên là Giám mục coi
sóc Giáo phận Bùi Chu. Hơn nữa, HĐGM/VN miền Nam chủ trương rõ ràng
không tị nạn. Đây là sự kiện then chốt, tượng trưng cho một thái độ :
đảm nhận thực tại ; và biểu hiện một tinh thần : tinh thần đối thoại.
Ba mươi năm qua, thái độ ấy, tinh thần ấy đã biến chuyển ra sao, đã
gặp những trở ngại nào và thu lượm được những thành quả gì cho Giáo
hội, cho Đất nước ?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi đề nghị phân tách một số sự kiện
và văn bản mà những người quan sát đều có thể biết đến. Xin bỏ ngoài
những lời đồn thổi về những hành động, những liên hệ bí mật ; vì
tính cách thất thiệt của chúng và vì, theo thiển ý, dù có thiệt đi
nữa, cũng không mang tính quyết định.
1. NHỮNG PHẢN ỨNG BAN ĐẦU
Sau khi Miền Nam tan rã như chim vỡ tổ, không có ngay một phản
ứng chung của HĐGM miền Nam. Tình thế lộn xộn, nhớn nhác lúc đó
không cho phép. Tuy nhiên phản ứng mau lẹ của hai vị đứng đầu hai
Giáo tỉnh miền Nam, Tổng Giám mục Huế, Đc Nguyễn Kim Điền và Tgm Sài
gòn, Đc Nguyễn Văn Bình đủ đại diện cho toàn thể hàng Giáo phẩm công
giáo miền Nam.
1.1. Đc Nguyễn Kim Điền, Tgm Huế.
Ngày 30 tháng tư quân đội miền Bắc mới vào Dinh Độc lập, nhưng
sáng ngày 26 tháng 3, cờ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã treo
trên Thành phố Huế rồi. Ai cũng biết, thực chất là quân đội miền Bắc,
nhưng Hà Nội vẫn còn dùng con bài Mặt trận Giải phóng để tránh tiếng
xâm lược miền Nam. Đức cha Điền lúc đó đang ở Sài gòn, hối hả ngược
dòng người tị nạn chạy về Huế.
Lời phát biểu ngày 09-04-1975
Trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố
Huế ngày mồng 9 tháng 4, Đc Điền đã nói lên cảm tưởng của mình. Xin
lấy lại toàn văn (chúng tôi ấn mạnh một số từ) :
“Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người, không có
gì quý hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo
tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đã chấm
dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một
sự thực cho cố đô Huế.
“Còn tự do
thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo
đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng
cho đồng bào các tôn giáo.
“Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của
nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi,
của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.
“Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với
tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng
xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh
vượng, hoà bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối
với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa ”.
Lời phát biểu ngắn, rất ngắn. Nhưng nghiêm túc và đầy đủ. Chiến
tranh chấm dứt. Tổng giám mục Huế không nói chuyện thắng bại, chỉ
mừng cho những mạng sống con người được bảo tồn. Vần đề còn lại là
tự do, dân chủ, nhân quyền ; chính quyền mới bảo đảm. Thể theo sự
bảo đảm ấy, người công giáo vui mừng, nguyện tích cực hợp tác để chu
toàn bổn phận đối với Thiên chúa và Tổ quốc : xây dựng một xã hội
tình thương, tự do, dân chủ.
Thư ngày 01-04-75
Trước đó, ngày 01 tháng 04, Đc Điền đã lên tiếng trong một bức
thư gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân của Tổng Giáo phận.
Lá thư nhìn nhận “Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó
là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay”. Đã qua rồi,
thời gian của hãi hùng, lo âu, thù hận, chém giết. Mời gọi linh mục,
tu sĩ, giáo dân “hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người
thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại
quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh
phúc cho đồng bào ruột thịt”. Kêu gọi hãy khoan dung, tha thứ mọi
lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái
lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác”,
“đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm
áo với đồng bào, không phải chỉ chia sớt những gì mình dư thừa, mà
còn trao nhường những gì mình chỉ có vừa đủ”. Nói một cách khác,
“phaỉ cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng”. “Nhưng không
phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ
trường cửu”. Cụ thể : “Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy sống Phúc
Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng”. Cho đến tận cùng, nghĩa là nếu
cần, phải sẵn sàng “thí mạng sống mình”.
Tóm lại, vui mừng vì chiến tranh chấm dứt ; đón nhận, phục tùng
chính quyền mới ; hoan hỉ phục vụ và cộng tác với mọi người thiện
chí để xây dựng lại đất nước ; nhưng đồng thời tuyệt đối trung thành
với Phúc Âm của Chúa Giêsu. Đức cha Điền không nói gì đến Đảng Cộng
sản Việt Nam, vì chính quyền mới, trên danh nghĩa vẫn là Mặt trận
Dân tộc Giải phóng. Tuy nhiên, “thế giới huynh đệ đại đồng” ám chỉ
một thứ ước mơ, một hứa hẹn trần thế nào đó… một điểm gặp gỡ có thể
có giữa những con người thiện chí.
2. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CỦA HÀNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
3. CHÍNH QUYỀN TỪ KHƯỚC ĐỐI THOẠI
4. CÁC GIÁM MỤC CHỌN CON ĐƯỜNG ĐỐI THOẠI
4.4. Đối thoại kiểu Đc Nguyễn Kim Điền
Trong thư
gửi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đề ngày 25-3-1988, Đc Điền viết :
“Năm 1967, khi tham dự cuộc họp quốc tề Caritas Internationalis tại
Rôma, một nhà báo người Ý hỏi tôi: “Ông nghĩ thế nào về Đảng cộng
sản Việt Nam?” Tôi trả lời “Là giám mục công giáo, tôi không thể
theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng người cộng sản Việt Nam là anh em của
tôi”. Hôm sau, báo đăng lời đó với hàng tít to. Năm 1980, cụ Trưởng
ban Tôn giáo Chính phủ tại Hà Nội nói với tôi: “Ông Tổng giám mục
tuyên bố câu đó hồi năm 1967 thì chỉ có hại cho ông thôi, vì lúc đó
CIA thống trị tại phía Nam và chính phủ nào ở đó cũng là chính phủ
chống cộng”. Tôi không biết anh nhà báo phỏng vấn tôi năm đó hiện
nay còn sống hay chết và ở đâu? Anh sẽ nghĩ thế nào nếu anh biết
được hoàn cảnh hiện tại của tôi? Còn lập trường của tôi từ năm 1967
đến nay vẫn trước sau như một”.
Hoàn cảnh
hiện tại của Đc Điền lúc đó là từ năm 1984, sau 120 ngày bị thẩm vấn,
mặc dầu là Tgm giáo tỉnh miền Trung, ngài không được phép đi thăm
viếng các giám mục thuộc giáo tỉnh, không được phép đi họp hội nghị
thường niên của HĐGM/VN, không được phép ra khỏi chu vi Tp Huế để
thăm các giáo xứ và làm các công tác căn bản của một giám mục. Sự
thể ra thế chính vì lập trường của ngài không thay đổi. Chiến tranh
đã chấm dứt ! Đc Điền đón nhận hoà bình như một hồng ân. Ngài là vị
giám mục Việt Nam đầu tiên kêu gọi mọi người hợp tác với chính quyền
mới, một chính quyền có đấy, như bất luận chính quyền nào. Chính
phủ cách mạng lâm thời tuyên bố tự do tôn giáo, Tổng giám mục Huế đề
nghị hoà giải dân tộc để xây dựng lại đất nước, và trước mắt, hàn
gắn những thương đau mà Huế là tang chứng bi thảm nhất. Tâm thư ngày
1-4-75 gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân Tổng giáo phận Huế cũng như
lời phát biểu ngày 9-4-75 trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân
tộc Giải phóng thành phố Huế cho chúng ta hình ảnh một vị chủ chăn
cởi mở, khiêm nhu, nhưng táo bạo, hết lòng phục vụ, dấn thân vì công
ích, vì Đạo Chúa, nhưng cũng chính vì thế, luôn luôn bênh vực lẽ
phải và tuyệt đối trung thành với sứ vụ của một giám mục công giáo.
Chính quyền
mới đã sớm lột mặt nạ như mọi người đều biết. Và hai năm sau, Tgm
Nguyễn Kim Điền đã lợi dụng hai cuộc họp do chính quyền triệu tập để
phát lên tiếng nói của lương tâm, tiếng nói tự do. Trong khi mọi
người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không
dám thổ lộ, Đc Điền đã ung dung, nhẹ nhàng nói thật. Tiếng nói của
ngài hoàn toàn bất ngờ, khác nào ngọn lửa bừng lên giữa đêm đen hay
nhát búa giáng xuống tảng băng cứng lạnh. Tiếng nói ấy đánh thức
lương tri, chấn động lòng người, truyền đi rất nhanh trong dân chúng,
vượt bức màn tre của chế độ và thành tít lớn trên báo chí ngoại quốc.
Không thể phân tách ở đây cuộc đối thoại nguy hiểm của Tgm Huế với
chính quyền độc thoại[2].
Chúng tôi xin chỉ đề cập đến hai bài phát biểu mở đầu cho mười năm
gian khổ của một công dân giám mục, vốn kín đáo, gần gũi với những
con người lao động, những tầng lớp thấp kém trong xã hội hơn là
những kẻ có quyền lực[3],
nay bị lịch sử đẩy ra sân khấu của thời cuộc.
Một buổi
họp do Mặt trận Tổ quốc Bình Trị Thiên và Tp Huế tổ chức, nói là để
thông báo, kỳ thực là để học tập cải tạo nhân vụ chính quyền bắt giữ
6 nhà sư của Phật giáo Việt Nam Thống nhất hệ phái Ấn Quang tại Tp
Hồ Chí Minh. Được mời phát biểu, Đc Điền không đi vào nội dung[5]
của sự kiện mà người của UBND Tp HCM vừa trình bày : “Cá nhân tôi,
tôi không có ý kiến gì cả. Vấn đề quảng bá tin tức, cắt nghĩa lý do
là nhiệm vụ của chính phủ. Tôi chỉ muốn san sẻ với các vị lãnh đạo
Phật giáo những kinh nghiệm mà trước đây chúng tôi đã phải chịu
trong vụ Vinh Sơn”. Rồi Đc Điền lấy giả thuyế tồi tệ nhất cho phía
các tôn giáo : “Chúng tôi chắc chắn là không có ai trong buổi họp có
thể chấp nhận hành động được diễn tả trong bản thông cáo của chính
phủ”. Nói một cách khác, cứ cho là sự việc đã xảy ra đúng như chính
quyền thông cáo (mà có ai đủ ngây thơ để tin chính quyền đây ?), cứ
cho là có những kẻ dựa vào tôn giáo để xách động này nọ đi, “Sự kiện
mà chính phủ vừa giải thích và trình bày cho chúng ta nghe, chỉ là
một sự kiện đơn độc”. Một sự kiện đơn độc ! Như muôn vàn sự kiện tốt
xấu xảy ra hàng ngày trong xã hội, có thể chạy tít lớn trên trang 1
của báo chí nhưng chẳng có gì đáng cho chính quyền các cấp phải làm
rùm beng ! Và đây, tiếng sấm nổ vào lỗ tai chính quyền : “Nhiều
chuyện như vậy đã xảy ra và còn sẽ xảy ra trong tương lai, nếu chúng
ta không giải quyết nguyên nhân căn bản của nó. Theo thiển kiến của
chúng tôi, nếu thực ra có những cộng đồng tôn giáo gây rối loạn
chăng nữa, chỉ vì không có tự do tín ngưỡng. Thẳng thắn mà nói, tôi
không thoả mãn với chính phủ về chánh sách tự do tín ngưỡng” Rồi
ngài kể ra một loạt những hạn chế, truy bức, vu khống, mạ lỵ… Riêng
người công giáo “có cảm tưởng mình là công dân hạng hai”, “trong
giới công nhân, công viên chức, bịnh viện hay giáo viên, thường
người công giáo được cho là tiên tiến ; nhưng chắc rồi cũng không
tiếp tục làm việc được, vì là công giáo. Đi xin việc làm hoặc bị từ
chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do thì được rỉ
tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi nhà thờ nữa là êm xuôi”.
Ngày
22.4.1977. Cuộc họp Góp ý kiến vào bản dự thảo “Đề cương
báo cáo của Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên”. Đc Điền lấy làm vinh dự
được mời tham gia đóng góp ý kiến, cám ơn Ban tổ chức và coi đây là
một việc làm có tính cách cởi mở, mới mẻ “vì Đảng và Tôn giáo không
đi chung với nhau”. (Cử toạ đột xuất vỗ tay !) Với tư cách là người
lãnh đạo tôn giáo, Đức cha góp ý về Chính sách tôn giáo của Đảng.
Về cách
tiếp cận vấn đề tôn giáo trong bản Đề cương, đức cha thấy tôn giáo
chỉ được nhắc tới 2 lần. Một lần, trong mục “phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân” có nói đến “đoàn kết các tầng lớp nhân dân”
trong đó có đồng bào các tôn giáo. Một lần nữa khi nói về “củng cố
quốc phòng, bảo vệ an ninh, chính trị và trật tự xã hội” sau khi đã
kể ra bao nhiêu tội phạm và các âm mưu phá hoại…”. Có người nhậy cảm
thấy nói về chính sách tôn giáo trong mục này thì lo ngại, vậy “để
tránh những lo âu và cảm tình không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo
đối với Đảng”, Đức cha “đề nghị đem chỗ nói về chính sách tôn giáo
lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”.
Tuy nhẹ nhàng, nhưng nhận xét trên vạch trần ý đồ của Đảng : khi
Đảng nói chính sách tôn giáo, phải hiểu chính sách đàn áp tôn giáo.
Nếu không, tại sao đặt tôn giáo vào mục an ninh chính trị, xã hội và
xếp hoạt động tôn giáo bên cạnh những âm mưu phá hoại và mọi thứ tội
phạm ? Thay vì vòng vo tam quốc, Đc Điền đặt thẳng vấn đề thiếu tự
do tôn giáo với chính quyền.
Nhưng để tránh
những góp ý trừu tượng, vì “ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi
họp sáng nay có dặn nên góp ý vào việc lao động sản xuất và kinh tế
cách trực tiếp hơn”. Diễn nôm : mọi chính sách đã có Đảng lo, góp ý
này nọ là để nhất trí và học tập chính sách, thực hiện chính sách.
Đc Điền hẳn cũng hiểu thế, nhưng ngài cứ coi như ông chủ toạ cuộc
Hội thảo nói thật và ngài thật thà góp ý vào việc lao động sản xuất.
Một cách thực sự cụ thể : “Theo tôi nghĩ, nếu có tự do tín ngưỡng
thì năng xuất của đồng bào công giáo sẽ lên cao lắm”. Đức cha đơn cử
một việc mới xảy ra trước đó mười ngày. Ngày Chúa nhật 10-4-1977 là
ngày lễ Phục sinh của Công giáo, một ngày lễ lớn, được chuẩn bị bằng
cả một tuần trước. “Xã Hải Trí phải làm thuỷ lợi trong thị xã Quảng
Tri. Huyện cho làm trong 10 ngày nhưng xã rút xuống còn năm ngày để
thi đua. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác
vào sáng Chúa nhật. Ngày thứ bảy, thôn Trí Bửu (hầu hết là công giáo)
đã đệ đơn xin xét lai cho đồng bào công giáo có giờ đi cử hành nghi
lễ đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm nữa.
Nhưng xã không cho (…). Có người nói với xã xin xét lại, vì nếu đồng
bào họ không tuân lệnh, thì tổn thương phần nào uy tín của chính
quyền địa phương. Như hôm lễ Giáng Sinh 76, thôn Trí Bửu cũng đã
không đi làm vì họ phải đi lễ. Nhưng xã cương quyết không xét lại…
Thì rồi, thôn Trí Bửu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm
thuỷ lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Ngày hôm sau họ huy động cả thôn ra
lảm thuỷ lợi thì thay vì năm ngày, họ làm trong hai ngày rưỡi là
xong. Nghe nói xã định tuyên dương họ, nhung họ không nhận vì họ
không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục Sinh hôm đó”.
Những
trường hợp cụ thể như trên cho phép khẳng định một cách khái quát :
“Chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự thì những người có tín ngưỡng mới
sống thoải mái, hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà thôi” !
Thực sự thì Đảng va Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng bằng văn
bản, sắc lệnh. Đã có tới 5 sắc lệnh và thông tư. “Nhưng trong thực
tế vẫn có những khẩu lệnh đi ngược lại với chính sách”.
Vậy phải có
tự do tôn giáo thực sự. Phải từ bỏ ý đồ tiêu diệt tôn giáo.
Người cộng sản cũng biết tôn giáo “là một nhu cầu xã hội và tâm lý,
bao lâu nhân dân còn cần đến, thì cứ để“. Đc Điền đồng ý : “chừng
nào đồng bào không thèm đến tôn giáo nữa thì thôi, tự nhiên sẽ hết
tôn giáo” Nhưng cấm thí chắc chắn không thể cấm được, vì 1) thực tế
lịch sử đông tây kim cổ, nhất là gần đây bên các nước thuộc khối
Liên xô đủ chứng minh điều đó. và 2) “vì tôn giáo nằm ở địa hạt khác,
địa hạt tinh thần và tâm linh nên khoa học và kỹ thuất không đánh
trúng được”. Đã không diệt được thì chỉ còn cách tôn trọng tư do tín
ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất, còn
tín ngưỡng thì ai chọn tôn giáo nào tuỳ sở thích. “Như vậy mới thoải
mái, mới đoàn kết được”.
Qua hai bài
phát biểu trong vòng 10 ngày, Tgm Huế thẳng thắn trực diện với chính
quyền toàn trị. Thiết tưởng, để tránh ngộ nhận, nên nói cho rõ : Đc
Điền không khi nào chống lại chính quyền. Ngài chỉ bênh vực
tự do tín ngưỡng thực sự thôi. Và khi đòi tự do tín ngưỡng, Đc Điền
đương nhiên đòi tự do và bảo vệ những quyền con người, trong đó tự
do tín ngưỡng là một quyền căn bản. Khi nói với chính quyền như thế,
Đc Điền cũng nói thay cho mọi người và nói với mọi người, đặc biệt
với những người đồng đạo và trong số này, hàng Giáo phẩm Công giáo.
Đối thoại với chính quyền một cách thẳng thắn và nghiêm túc như thế
cũng là đề nghị với các giám mục Việt Nam khác một đường lối thích
ứng trong hoàn cảnh mới. Nhưng đường lối này không được sự đồng tình
của tất cả mọi giám mục. Ta sẽ nhắc tới đường lối của Tgm Sài Gòn.
Nhưng trước đó, xin nói về phản ứng của chính quyền sau hai bài phát
biểu của Tgm Huế.
Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Tp Hồ Chí Minh can thiệp.
Chính quyền
đã đánh giá đúng mức những lời phát biểu của Tgm Huế. Bằng chứng là
ông Nguyễn Văn Chì, Chủ tịch UB MTTQ Tp HCM, gửi cho Đc Bình một bản
"NHẬN ĐỊNH VỀ HAI BẢN VĂN ghi lại lời phat biểu của Tgm Nguyễn Kim
Điền". Mở đầu như sau :
"Gần đây
Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp HCM được biết có
luân lưu, phổ biến trong một số linh mục, tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa
giáo ở Tp HCM hai bản văn dưới có ghi lời phát biểu của ông Tgm
Nguyễn Kim Điền, địa phận Huế. Hai bản văn này không những chỉ luân
lưu, phổ biến trong giới Thiên chúa giáo mà còn phổ biến tới cả một
giới Phật giáo và tới một số nơi khác nữa". Ông Nguyễn Văn Chì thông
báo cho mọi người biết rằng hai bản văn của Đc Điền đã được phổ biến
rộng rãi. Nhưng vì hình như còn nể một ông Tổng giám mục dù sao cũng
được chính quyền coi là cởi mở, ông viết tiếp : "Chúng tôi chưa rõ
hai bản văn này có phải đúng là của ông Tổng giám mục địa phận Huế
ghi hay không ? Sự ghi chú đó có phản ảnh trung thành lời phát biểu
của ông Tổng giám mục địa phận Huế hay không ? Và chúng tôi cũng
chưa biết rõ việc phổ biến hai bản văn đó là có ý kiến của ông
Nguyễn Kim Điền hay không ? Ai là người chịu trách nhiệm phổ biến ?".
Một loạt câu hỏi vừa để chạy tội cho Đc Điền (nếu biết sám hối !),
vừa đe doạ ‘người chịu trách nhiệm phổ biến’. Vì, theo ông Chủ tịch
UB MTTQ Tp HCM, những ý kiến trao đổi trong hội nghị, dù đúng đắn
cũng không nên đơn phương phổ biến, huống chi những ‘ý kiến sai lầm’
mà phổ biến ra ngoài ‘sẽ gây tác hại có khi rất to lớn’.
Đe doạ xong,
ông phân tách và phản bác hai luận điểm chính của Đc Điền : 1) Không
có tự do tôn giáo thực sự và 2) vì thế mà có những vụ như Vinh Sơn
hay Phật giáo Ấn Quang.
Về điểm 1)
ông Nguyễn Văn Chì khẳng định chính sách tự do tín ngưỡng và tự do
không tín ngưỡng trước sau như một của Đảng. Không có mâu thuẫn giữa
văn bản và thực hành. Tuy nhiên ông công nhận còn có những thiếu sót
cần khắc phục. Những thiếu sót này một phần đến từ phía “một số cán
bộ cách mạng do trình độ còn non kém hoặc do chưa hết thành kiến mà
làm sai đường lối chính sách”, nhưng cũng đến từ “hố sâu ngăn cách,
chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai tạo ra hơn
100 năm nay”. Hơn nữa, hiện nay, bọn đế quốc “vẫn tiếp tục lợi dụng
khai thác những thành kiến vốn dĩ do chúng tạo ra đó để kích động
những hành động chống phá cách mạng trong các tôn giáo ; đặc biệt
trong Thiên Chúa giáo”. Cho nên, đồng bào công giáo hiện nay cần
phải có sự cố gắng và nỗ lực vượt bực, vượt lên mọi trở ngại để phối
hợp hành động cùng với chính quyền cách mạng và tất cả những người
có thiện chí, kiên quyết đấu tranh cưỡng lại bọn phản động trong
thiên Chúa giáo (…) Có thể nói đó là cuộc đấu tranh khẩn trương, gay
go quyết liệt, bền bỉ trong lòng dân tộc, trong nội bộ Thiên Chúa
giáo và ngay trong từng con người của mình, giữa chánh nghĩa và phi
nghĩa”. Dĩ nhiên, chánh nghĩa trong lòng dân tộc là chánh nghĩa của
chế độ. Vì vậy ông Nguyễn Văn Chì cũng chẳng ngần ngại nhìn nhận có
công dân hạng hai : “Có thể nói thẳng, không cần gì phải giấu giếm
là quả có sự phân biệt đối xử và cần có sự phân biệt đối xử với một
số người không chịu cải tà quy chính”. Mà cải tà quy chính trong
ngôn ngữ của chế độ phải hiểu là trở về với dân tộc ; và trở về với
dân tộc phải hiểu là trở về với Cách mạng, với Đảng.
Về điểm 2)
ông Chì còn gay gắt hơn nhiều. Ông rất “tin tưởng đồng bào có đạo,
cũng như các hàng giáo phẩm chân chính”. Nói cách khác, ông chỉ tin
tưởng đồng bào có đạo và các hàng giáo phẩm trong chừng mực họ chân
chính theo những tiêu chuẩn của chế độ. Đối với ông, càng theo Đảng,
càng chân chính ; tôn giáo chân chính khi tôn giáo phuc tùng Đảng ;
giáo phẩm chân chính khi giáo phẩm quỵ luỵ, luồn cúi Đảng. Đc Điền
nói : “Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động
này khác là vì chưa có tự do tín ngưỡng đó thôi”. Ông Chì không hiểu
nổi điều đó, vì đối với ông, Đảng trước sau như một bảo vệ tự do tín
ngưỡng cho những ai theo gót Đảng. Ông cho rằng luận điểm của Đc
Điền chỉ “lập lại luận điệu của bọn đế quốc Pháp và Mỹ” : nhân danh
tự do tín ngưỡng “để cho phép mình làm hoặc bênh vực cho những hành
động bỉ ổi xấu xa nhất, phi đạo nhất (…) Những người làm như thế,
bênh vực như thế không những làm mất phẩm giá của mình, mà còn làm
mất phẩm giá của đồng đạo, của đạo lý mà chính tác giả hai bản văn
đang tín ngưỡng. Làm như thế, là nhân danh tự do tín ngưỡng để
khuyến khích mọi hành động phản cách mạng, mọi hành động xấu xa phi
đạo đức”. Phản cách mạng là xấu xa, phi đạo đức. Thiện là Cách mạng,
Ác là chống lại Cách mạng. Tgm Huế Nguyễn Kim Điền, theo những lời
cáo buộc của ông Nguyễn Văn Chì, đã đánh mất phẩm giá của mình. Tệ
hơn nữa, đã làm mất phẩm giá của đồng đạo (vẫn cái lối ‘tội’ cá nhân,
trách nhiệm tập thể !) và của đạo Công giáo !
Gần ba mươi
năm sau, đọc lại những lời kết án này, thật khó hình dung nổi thái
độ u mê, trâng tráo và cường bạo của Đảng cộng sản Việt Nam hồi đó.
Qua cách
lên án Đc Điền, chính quyền cộng sản đe doạ mọi tôn giáo, đặc biệt
hàng giáo phẩm công giáo. Dĩ nhiên, Đc Điền không thay đổi thái độ.
Giữa Nhà nước CHXHCNVN và Thiên Chúa, đương nhiên Đức cha chọn Thiên
Chúa và trước những đòi hỏi phản tự do, phản nhân quyền, phản đạo
lý của Đảng CSVN, Đức cha chỉ có thể trả lời : Non possumus.
Chúng tôi không thể. Và sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả. Trong lá
thư gửi cho linh mục, tu sĩ và giáo dân ngày 19-10-85, Đức cha viết :
“Năm 1971, tại Thượng Hội đồng giám mục Thế giới, tôi có phát biểu :
“Đã có những giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh,
nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vưc quyền lợi
của con người không ?” Hạnh phúc thay ! Hôm nay chính tôi được Chúa
gọi để chịu tù ngục, chịu chết vì bênh vực nhân quyền, công lý và
công bình”
Người ta đã
bắt Tgm Huế đi làm viêc, đã chặt chân chặt tay của ngài. Những người
công tác gần gũi của ngài bị thẩm vấn, bắt bớ, giam cầm như lm
Nguyễn Văn Lý, lm Trần Văn Quý, nữ tu Trương Thị Lý…
Cuối cùng,
Đc Nguyễn Kim Điền đã chết một cách khả nghi tại bênh viện Chợ Rẫy
ngày 8.6.1988.
Đỗ
Mạnh Tri.
Paris
29.04.2005.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét