Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2016

NUNS IN WHEELCHAIRS SEEKING JUSTICE (GNsP)

NUNS IN WHEELCHAIRS SEEKING JUSTICE
A group of 20 nuns and laity from the Order of Saint Paul flocked to the headquarters of Hoan Kiem District Inspectorate (Hanoi) in the morning of July 22nd to petition against the disputed construction being carried out on Convent grounds at 5 Quang Trung, Hanoi.
Among the group seeking "fair settlement" of the dispute were elderly nuns sitting in wheelchairs, rosaries in their hands.
This image reminds one of another incident occurring in October 2015, when the authorities of District 2, Ho Chi Minh City were demolishing the property of the Lovers of the Holy Cross of Thu Thiem in order to start their New Urban Project.
At that time, the elderly sisters from the Lovers of the Holy Cross were also found in their wheelchairs joining hands with others to protect their land, in spite of their poor health.
History repeated itself on July 22. Nuns with cancer in wheelchairs joined hands with their sisters to give Hanoi authorities the petition for "immediate cessation of the construction" at No. 5 Quang Trung, Hoan Kiem District.
In the meeting, inspectors from Hoan Kiem District Inspectorate stated that they had taken notice of the nuns' opinions, but a video made at 10 am of the following day, July 23, showed workmen on the ground continuing the construction.
The sisters stated that they have sufficient proof of ownership of land, but somehow Hanoi authorities had granted a "Land Use Rights Certificate" to an individual named Huong Ly Tran.
At the time of this report, Ms. Ly was still hectically working "day and night" on the construction on the disputed land. In their petition to the Inspectorate, the nuns requested revoking the Land Use Rights Certificate and Construction Permit which had been granted to Ms Ly.
The grounds at No. 5 Quang Trung was formerly the Novitiate of the Order, but in 1961 was "leased" to a state agency which had occupied and misappropriated it ever since. The land was later given by the state agency to its individual employees and each of them re-sold their land to other individuals.
The sisters were also asking everyone to join them in prayer and solidarity in the hope that the incident is justly resolved.
CTV GNsP
----
http://www.tinmungchonguoingheo.com/blog/2016/07/24/nhung-nu-tu-ngoi-xe-lan-di-tim-cong-ly/

NHỮNG NỮ TU NGỒI XE LĂN ĐI TÌM CÔNG LÝ

‪#‎GNsP‬ (24.07.2016) – Sáng 22/7, một nhóm trên 20 nữ tu dòng Phaolô cùng giáo dân đến trụ sở Thanh tra quận Hoàn Kiếm, Hà Nội để khiếu nại về khu đất của Nhà dòng đang bị thi công đang bị tranh chấp ở số 5 Quang Trung, Hà Nội.

Trong đoàn người đi tìm “sự giải quyết công bằng” ấy có cả những nữ tu lớn tuổi, những nữ tu ngồi xe lăn trên tay nắm chặt chuỗi kinh Mân Côi.

Hình ảnh làm người viết nhớ đến một vụ việc khác xảy ra hồi tháng 10/2015, khi giới chức trách quận 2 ở Tp. Hồ Chí Minh cho tháo dỡ, đập phá các trường học là cơ sở của Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm cho dự án kinh tế Đô thị mới.


Lúc ấy, các nữ tu lớn tuổi của dòng Mến Thánh Giá dù sức khỏe yếu và phải ngồi xe lăn, nhưng cũng ra để bảo vệ đất của dòng.


Hôm 22/7 vừa qua, hình ảnh ấy lại tái diễn. Các nữ tu bị ung thư ngồi xe lăn cùng với chị em của mình, đến trao cho giới chức trách Hà Nội kiến nghị “đình chỉ ngay việc xây dựng” ở số 5 Quang Trung, quận Hoàn Kiếm.

Trong buổi làm việc, cán bộ thanh tra quận nói đã ghi nhận ý kiến của các nữ tu, nhưng video quay lúc hơn 10 giờ sáng ngày 23/7, cho thấy vẫn có người thi công trên khu đất.

Các nữ tu khẳng định có đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu khu đất, nhưng giới chức trách Hà Nội lại cấp ‘Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất’ cho một cá nhân là bà Trần Hương Ly.


Bà Ly vẫn đang cho thi công ráo riết “ngày cũng như đêm” trên mảnh đất có tranh chấp. Các nữ tu trong đơn kiến nghị gửi thanh tra, cũng yêu cầu “thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng” của bà Ly.


Khu đất số 5 Quang Trung này vốn là Nhà Tập của dòng, nhưng đã được một cơ quan của nhà nước thuê và chiếm dụng luôn từ năm 1961. Khu đất sau đó được chia cho cán bộ và các cán bộ này tiếp tục bán cho các cá nhân khác.


Quý nữ tu cũng “xin mọi người cầu nguyện và liên đới với quý soeurs để vụ việc được giải quyết cách công bằng.”

CTV GNsP

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Common Elements of Successful Opposition to Communism in Eastern Europe

http://www.idee.org/cubaideas4.html

Common Elements of Successful Opposition to Communism in Eastern Europe 
by Eric Chenoweth and Irena Lasota
Introduction
 Ten years ago, in October and November 1989, communism collapsed in Eastern Europe. The “collapse” of communism took many years and involved many courageous people who struggled for basic human rights and democracy. 
 One could say that communism in Eastern Europe began to collapse when it was imposed on the region by Soviet tanks and troops starting in 1944 (just as Soviet communism began to collapse when it was imposed on the Russian people by the Bolsheviks in 1917-20). From that time on, communist leaders in Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, East Germany, Hungary, Poland, Romania, and Yugoslavia — placed or helped into power by the Soviet Union — tried to build a system that was unsustainable. This system was based on the communist party-state’s total  control of everything — economic, social, religious, cultural, and above all political — and refused to allow any alternate view to its own. Throughout its history, the system of communism showed that it would choose power and authority over truth and the well-being of the society, and thus it chose ineffecient, unproductive, and absurd methods of running the economy and state instead of using more rational methods. Such a system promoted less talented people on the basis strictly of loyalty to the communist party-state, while the more talented were often fired or put in jail not only for disagreeing with the party-state but even just for earnestly pointing out better ways of doing something. Under communism, telling the truth or saying that something could be done better means questioning the authority of a communist party official at some level or another, and such questioning is interpreted as challenging the authority of the communist party and its sole and unquestionable control over the state.
 In the end, communism could not survive without the use of force and terror. When the backing of the Soviet Union became less certain — Mikhail Gobachev’s foreign minister in 1988 made it explicit that the USSR was no longer able to put down any revolt — the people in Eastern Europe began to feel more and more confident in voicing their opposition to the regimes and challenging their countries’ internal mechanisms of communist control.
 Society’s opposition to communism always existed but could not be expressed openly. This opposition had been represented by a small number of individuals who were willing to take the risk of prison or physical harm in support of basic freedoms. They were called “dissidents” since they were dissenting from the regime, but many of them disliked this term, since it seemed to marginalize them as representing a small minority in society — mythic Don Quixotes tilting at windmills. Instead, they argued, they were representing the majority and not dissenting at all from the views of society. It was the government, they said, that dissented from the people by imposing totalitarian rule.
 The “dissidents” were proven correct in 1989–91, when the people in all of the countries of Eastern Europe, and then in the former Soviet Union, overthrew the regimes in power through massive demonstrations and other forms of popular pressure and replaced them with democratic governments in free and fair elections. In nearly all of these countries, the “dissidents” led these opposition movements and people turned to them to negotiate a transition to democracy and to reform the state, the government, the economy, and society. When given a real chance to express their choice in free and democratic multi-party elections, the people in large measure chose parties representing the views of the long-time opposition activists, whose platforms included support of basic human rights, real democracy, the rule of law, some form of market economy (although many differences existed on what sort of market economy), civil liberties and protection of the rights of minorities, and cultural and academic freedom. Even the postcommunist parties, meaning the renamed communist and popular front parties, were all forced to adopt most if not all of these formerly “dissident” platforms.
 In some countries, the old communist elites maintained their power by appearing to be the force of change, but in fact were trying to keep things the way they were as much as possible so that they might organize an orderly transfer of economic wealth from the state to individual communists, keeping it as much as possible away from ordinary people. This was the ironic end to communism. But even such “postcommunist” governments could not survive and parties representing more democratic and liberal views were voted into power at the first opportunity.
 While everyone agrees that communism collapsed because it was an unsustainable system based on repression and terror, history shows that repression and terror can continue for a very long time. Ultimately, for communism to collapse, an organized opposition representing alternative views is necessary. In short, pluralism is anathema to communism and when the people’s will to freely express different viewpoints can survive communism’s system of terror, when the system’s terror is balanced by society’s opposition, then communism can not survive much longer. So, the experience of Eastern Europe showed it is not enough to wait for communism to collapse.
A Brief History of the Collapse of Communism and the Role of Opposition: 1989-91
 In practical terms, the collapse of communism began in 1980, the year the Solidarity trade union arose in Poland out of a massive strike movement that forced the authorities to legalize — for the first time under communism — free trade unions and other independent associations. Within six weeks, ten million people joined Solidarity while many more millions joined other organizations, such as Rural Solidarity. For sixteen months, Solidarity acted legally and openly, while almost the whole of Polish society (even parts of the communist party!) now acted more or less freely. Even though ultimately these independent associations could not overcome the entrenched power of the communist party, these sixteen months were an important lesson and memory for Poles when General Wojciech Jaruzelski, supported by the Soviet Union, imposed martial law on Poland in December 1981. 
 In fact, the formal decree in Polish was called stan wojenny, literally declaring a “state of war,” a constitutional mechanism that was supposed to be used only in cases of external threats. For Jaruzelski, Solidarity—Polish society itself— was an “external” threat with which he had to wage war. Tanks blocked streets, soldiers and police were deployed throughout the country, killing over 100 workers. All workplaces were militarized. Over ten thousand people were interned within one week; in a two-month period over 100,000 people had been incarcerated for 24-hour periods or more. Many important leaders of Solidarity were imprisoned for five to six years.
 Nevertheless, many Solidarity leaders escaped arrest, some by serendipity and others by foreplanning, and they undertook to reorganize Solidarity underground, from top to bottom. At every workplace an underground Solidarity committee was formed, meeting secretly in people’s homes; elected local representatives met to select regional committees; regional representatives elected a national committee. Cultural, educational, academic, and publishing initiatives were organized. There were over 2,000 underground publications from 1982-87 and over 50 publishing houses that put out over 1,000 editions of books that featured officially banned literature and history. The independent students and Scouting movements were also reborn, helpign young people to learn how to act outside the strict confines of communist ideology and rules. 
 While many people were arrested — two thousand were sentenced in 1982 alone and six hundred persons were still in prison as late as 1986 — the regime was faced with the problem that it could not arrest everyone who was actively supporting Solidarity. Faced with international sanctions and a declining economy, the regime was slowly pressed, both internally and externally, to release political prisoners and to make some gestures to Polish society. In 1988, the workers at the Nowa Huta Steelworks and Gdansk Shipyards again went on strike to demand Solidarity’s relegalization. The strikes were subdued but at this point the regime agreed to undertake “Roundtable Negotiations” with the opposition, which began in December 1988 and resumed in March 1989, when an agreement was reached.
 The Roundtable Agreement allowed for the first time partially free elections. Free competition was provided for all 100 seats of a new body, the Senate, which would have limited  powers but the ability to veto and propose some legislation. It was also introduced for one-third of the over 400 seats of the Sejm, the existing legislative body, which would retain nearly all formal powers over legislation and the budget. However limited, Solidarity’s overwhelming — almost unanimous — victory for the contested seats led to even more radical change: the election of a non-communist Prime Minister and government. From that point on, although the communist nomenklatura remained largely undisturbed and the secret services survived surprisingly intact, nevertheless the basic framework of communist power was deconstructed and in 1990 Lech Walesa, the leader of Solidarity, was elected President.
 Another significant event in the summer of 1989 was the large number of East Germans who decided to travel through Hungary in order to seek refuge in the West, a protest against East Germany’s continued refusal to allow the right of free movement to its people for fear of massive emigration. The refugees sparked massive demonstrations in Leipzig, Dresden, and then other cities in East Germany, but the demonstrations, led by a largely unknown but always active opposition, quickly became voices for making real democratic change. Hungary’s government, still under communist control, was also under great pressure from a revived opposition movement, which demanded that the refugees be allowed to pass across the border. The border, like the East German border, was heavily patrolled with border guards and lined with an “iron curtain” of barbed wire. In late August, the Hungarian Foreign Minister, Gyula Horn, announced that the border would be fully opened, meaning the many thousands of East German refugees could pass freely. Border guards were pulled from their rifle towers and ordinary citizens came by the thousands to cut the barbed wire themselves along hundreds of kilometers.
 This decision and the rising flow of refugees strengthened the demonstrations that led two months later to the tearing down of the Berlin Wall and the total collapse of the East German communist regime. It was around that time that Czechs and Slovaks massed in the streets in November 1989. They didn’t leave until finally, a month later, Vaclav Havel was taken “to the Castle” — the place of the president’s office. In Hungary, the opposition forced a public referendum on four issues — the dissolution of the Workers’ Guards, who had played an important role in repressing the Hungarian Revolution and had continued that role ever since; the dissolution of party committees at workplaces; the parliamentary election of a president having limited powers; and free media. Its victory forced the government to announce elections for the following March, when opposition parties won a decisive victory. Poles had already elected their first non-communist prime minister and then prepared to change the Roundtable Agreement to bring about fully free elections for all of parliament. Also in November and December 1989, Bulgarians and Romanians soon followed along similar paths, but in Romania there was a more violent change of power that had important consequences later. National movements and workers were striking throughout the summer of 1989 and 1990 in all of the republics of the Soviet Union as well, presaging its ultimate demise in 1991.
 Some believe that communism just fell of its own accord or from its own rottenness and decrepitude. Its own essence – control – was seen to be the source of its demise. In a rapidly changing global economy requiring innovation and swift change, as well as a high degree of service, communism was being left way far behind by its rigidity, its lack of incentives, and its poor quality and service, meaning it could no longer survive as a viable system. While there is some validity to this analysis, in truth, none of the changes described above would have happened without organized pro-democratic movements pressing constantly for greater and greater freedom. In fact, communism could have survived, simply in a somewhat different form. The communist elite — the “organs of state security,” the military, the Central Committee of the Communist party, and the broader communist nomenklatura — were preparing for a change to allow them the advantages of the West’s economic system through economic espionage, Western investment, and loans and credits from international financial institutions, but at the same time to maintain the benefits and power that came with the East’s one-party system. And for them, egalitarianism was as far a distant thought as it was for the London bankers from whom they sought loans and credit. They sought material wealth and privilege as much as anyone in the so-called decadent West and lived lives much better than most everyone else in the society. They were willing to see the country’s population grow more and more poor as they got more and more rich. And the less democratic the change in Eastern European countries, the richer the nomenklatura elite became and the worse off the general society. This is what Alexander Podrabinek describes in his complementary essay on the terrible transition that Russia has suffered (see pamphlet ___________________ of this Democracia pamphlet series) and by contrast what Mart Laar describes about the successful transition in Estonia or Joszef Szajer about Hungary. 
 It was the organized democratic movements in Poland, Czechoslovakia, Hungary, East Germany, and the Baltic countries that ensured that their countries — still with many difficulties and some setbacks — made a more or less successful transition from communism. In all of these countries, opposition require required enormous effort and courage by many individuals who were willing to stand up to the regime and say, No!, this is enough. We demand change. We demand human rights and freedom. We demand to be true citizens and to vote in free and fair elections. We demand an end to economic misery and a chance for economic opportunity. (These were the actual slogans of the democratic movements of these countries.)
 Where there was less successful reform or transition — Albania, Bulgaria and Romania and most of the republics of the former Soviet Union and former Yugoslavia — the democratic or “dissident” movements were not as strong and did not rise up in such a unified way to demand change. With the exception of former Yugoslavia, which had the unique heritage of Tito, these countries came out of much more repressive situations that then allowed seemingly reformist factions of the communist elite to maintain power after 1989. In Bulgaria, there was a short interlude, between 1992 and 1993, when the pro-democratic United Democratic Forces came to power and instituted free market reforms quickly, but these were mostly nullified when the Socialist Party returned to power. 
The Common Elements of Opposition
 What, then, were the common elements of successful opposition to communism in Eastern Europe?
 (1) All successful opposition movements adopted strictly peaceful means to fight with the regime. 
 Simply, there can be no successful armed opposition to overwhelming state power of communism. In the history of communist rule, even newly imposed, weak regimes (Russia, Ukraine, the Baltic States, Poland, Yugoslavia, Cuba) successfully repelled armed partisan uprisings. In fact, violent opposition has only succeeded in strengthening communist regimes, giving them pretexts for wide-ranging repression of all opposition, non-violent and violent. The use of violence always gave the communist regimes the advantage, since they always had more arms. 
 So, when trying to oppose regimes that in fact were trying to provoke violence, non-violence was the only feasible weapon. But the adoption of peaceful methods of opposition by dissidents was not simply a strategy but also a firm moral belief. How could one bring about democracy, which is based on the free consent of the people, through individual violence and coercion by a minority? Violence breeds violence and will always result in more violence and terror. No democratic aims can be achieved through violence. 
 Just as importantly, free expression, pluralism, truth — the essence of any democracy — are what threaten the communist regime most, not guns. Guns and sanctioned violence are the lifeblood of the regime, while words and unsanctioned expression are the lifeblood of the opposition. A communist regime can never win a battle of ideas because in the end the only argument in favor of communist ideas has been coercion and force.
 2. The struggle for human rights is the first and most important struggle for democratic change.
 No opposition movement began around the struggle for economic reforms. As important as economic reforms are, especially in a dying communist state, these demands came later. Always, the first demands were for basic, fundamental human rights. The struggle for these rights were centered around the most important documents of the international community: the Universal Declaration of Human Rights (1948), the U.N.’s International Covenant on Civil and Political Rights, and the key conventions of the International Labor Organization guaranteeing the right to association and collective bargaining [these are published in the series Internationales Normas]. Worker rights were seen as synonymous with human rights. In 1976, the intellectual opposition in Poland formed the Workers Defense Committee, or KOR, in order to defend workers being fired for trying to organize strikes and otherwise press the enterprise management to pay back wages. The right to free association — the right to organize a union of one’s own choosing — was seen as central to any organized opposition to the regime and to improvement of one’s economic condition.
 For the Warsaw Pact countries, another document was also central, Basket III of the Helsinki Final Act. The Helsinki Final Act was central because it combined all major concepts of international human rights into one “basket,” even though, as a security document, it also formally recognized the Soviet Union’s domination of the Baltic countries and Eastern Europe. Helsinki Committees were established in all of the Eastern European countries and today they continue to play an important role in promoting, teaching, ensuring, protecting, and monitoring human rights in their countries. The Helsinki Committees were formed in all the capitals, but their importance lay in their broad reach. Citizens contacted them to report human rights violations from throughout the country. The publishing of reports on human rights violations gained international publicity and generated both internal and external pressure on the regime. People believed so much in the importance of collecting and disseminating information on human rights violations that they risked their safety and security to do it. Defending imprisoned human rights monitors became in itself an important act of opposition.
 3. Individual citizen action is doomed to fail as a means of opposition. Only groups united around basic ideas of democracy and human rights can succeed.
 This is not to say that individual action cannot achieve positive results. It can have positive results and should even be encouraged. There were many cases of courageous individual acts of opposition achieving both concrete and symbolic victories — the open publication of Alexander Solzhenitzyn’s One Day in the Life of Ivan Denisovic in 1962 and the samizdat publication of The Gulag Archipelago  exposed the enormity of the Soviet concentration camp system not only to the world but to the entire communist bloc. Still, this is a tactic based on the inability of not being able to act in groups, it is not a strategy for opposition. Indeed, The opposition movements in Eastern Europe discovered after many hard years of tilting at windmills that absent more collective or group action no effective opposition can be organized. This idea is understood in the Acuerdo para la Democracia, signed by many dozens of Cuban opposition and exile organizations that agreed to unite in a basic statement of commitment to democratic principles for Cuba. Simply, there is strength in numbers. Successful transitions have occurred only in countries where opposition coalitions formed around basic ideas of democracy and human rights. The Acuerdo is similar to documents of Czechoslovakia’s Charter 77, of Poland’s Workers Defense Committee in Poland, and of Hungary’s 1988 statement of intellectual opposition “It Is Not Enough to Demand.”
 There is another important reason to be united in opposition. Separatism and non-cooperation within the opposition can only bring dissension, in-fighting, and failure. Any country where the opposition has failed to understand the idea of common action for a common goal — most importantly bringing about a democratic change of government — has seen disastrous results. In Yugoslavia, the failure of the opposition to work together was catastrophic, contributing to the continued bloody and repressive rule of Slobodan Milosevic. In Russia, the opposition divided early on, allowing unscrupulous opportunists to gain power.
 4. Opposition movements are pluralistic.
 While opposition should be united, all opposition movements in Eastern Europe were also broad-based, involving all intellectual and political currents, social strata, and ages. They included Marxists, Thatcherites and free marketeers, Social and Christian Democrats, postmodernists and postpessimists, young and old, intellectuals and workers, rural and urban, and most any variant in society one could think of. No one agreed to put aside their beliefs but everyone agreed to put aside differences for a common aim: putting an end to the communist system and establishing the basic framework of a democratic society. Everyone knew that once the basic change in the system occurred, they would be debating all at once over many economic, social, cultural, and political issues. But everyone — most everyone that is — came to understand that there was a broad umbrella of common understanding and belief that would allow them to come to agreement on those issues of disagreement.
 5. Positive action is the most successful opposition to communism. 
 Simple opposition to communism or opposition to the leader of a communist regime is not enough to build support for democratic change. It is in itself negative action. There has always been widespread opposition to the communist system among people forced to live under it. But such opposition never changed anything. Only positive action based on achievable goals and individual commitment has accomplished any changes. 
 Positive action is usually associated with or tied to some basic ideas of democracy, such as defending human rights, disseminating uncensored information, or organizing around the free exploration of ideas. Or it is tied to more basic social matters, such as workplace rights or defending or rebuilding community, church, or family. Positive action ranges from protesting for basic trade union freedoms, to the vigorous defense of every political prisoner and employing all international and domestic legal and political means to gain their release or protect their persons and family while they remain in custody. Positive action includes using the home as a place of independent moral and educational instruction, promoting alternative methods of learning such as “flying universities” and independent libraries, organizing common activities for young people (including alternative scouting), sustaining intellectual life through parallel academic, scientific, or writers’ associations and making sure that all outside or banned books obtained by each individual has limitless circulation, improving community life, challenging the authorities at every level to live by the system’s own self-contradictory rules, using the regime’s own democratic rhetoric against itself, and, not least for those who are believers, practicing religion. All of these individual and group actions are positive in nature and do not involve opposing the system as a whole or supporting its overthrow but rather achieving distinct, concrete victories. Yet, all of these actions may also lead to more significant victories — the recognition of alternative intellectual groups or trade unions, the resignation of local officials who are exposed as corrupt or ineffecient, the teaching of a new generation to resist the government’s propaganda, convincing communities about the true nature of the regime — victories that inevitably lead to the system’s final collapse. 
 6. Positive, common action helps build the networks, movements, and coalitions necessary to overthrow communism.
 Only through an idea of positive, constructive action will there arrive an idea of working together for the same goal, or to the idea of working in coalition with other groups for similar goals, or to the goal of working in coalition for achieving and building democracy. Connected to this idea is that positive action is the best means for building the basic foundations for future democracy. In Poland, the underground publications begun under martial law are today the basis for the independent local press, an important part of Poland’s growing civil society. The Lawlessness Commission was the basis for the complete overhaul of laws relating to human rights. The underground organizations created around education, science, and culture became the basis for the revival and transformation of each of those sectors.
 If a cataclysmic change were to occur tomorrow throwing Castro aside and establishing democracy, there is now the incipient basis for a civil society in Cuba. While weak, it is something that did not exist before. Slowly, we see that this internal opposition is involving more and more people around specific campaigns of positive action. The more everyone works in favor of this incipient civil society, the greater the possibility for a more peaceful, more successful transition from communism to democracy as in Eastern Europe and the less possibility for the terrible economic chaos, dictatorship, or even anarchy we witness in the former Soviet Union, where societies were less prepared to take part in democratic processes.
 7. Strong leaders are important but not sufficient or necessary to successful movements for change. 
 Many opposition movements in Eastern Europe had strong leaders (such as Andrei Sakharov, Lech Walesa, and Vaclav Havel) but even in Poland and Czechoslovakia these leaders’ successes were based on a broader democratic movement, which reached down to the lowest levels and to the broadest number of people possible. There were in fact many leaders in each of the countries, many still not very well known, who had a common democratic message — that communism wasn’t eternal, that communist leaders were not infallible, that the regime in fact was weaker than it appeared and was only held up by force, that a popular movement of opposition could overcome the regime’s power, that democracy, in fact, was possible. This message, spread throughout society, was what brought people around a common democratic movement for change.
 8. Democratic activists do not have to risk themselves unnecessarily. It is not necessary for people to be martyrs to join ghe struggle for freedom. 
 There is a common assumption that martyrdom — in the case of communism, personally risking life and liberty — is necessary to become active in the movement for freedom. But if martyrdom were necessary, then membership in the movement would certainly be exclusive to those few who are willing to purposely put themselves at risk. Such courage, while worthy of everyone’s respect, is unusual and cannot be expected of ordinary citizens. Some individuals may choose to chain themselves to a prison gate and risk arrest, but their friends and neighbors who choose not to join them should not be considered less worthy as democratic activists. Indeed, if a risky action is considered necessary, then strategic choices should be made as to who can and cannot be sacrificed to prison. But in general, it is a myth that risky action is necessary. The more risky actions are taken, the fewer democratic activists remain outside prison to carry out the struggle. While everyone who decides to engage in the democratic struggle should be prepared for possible arrest, they may decide to engage in more joint action and minimize risks. In doing so, they still achieve important goals of the movement.
 9. Opposition movements all found broad support of the people – “the masses.”
 The movement for democracy should be one that broadens participation (another reason that risky actions should be kept to a minimum). Ultimately, the aim should be to involve so many people that the police no longer feel confident to act against them. Indeed, when given the first opportunity, the “masses” in Eastern Europe came out of their houses to demonstrate that they wanted real democratic change and a chance to improve their economic lives.
 10. Compromise was necessary but some compromise was not necessary. 
 In all Eastern European countries, the moment of real change was extremely difficult because it required some basic compromises with principles, most importantly principles of justice. It appeared obvious that those who killed, repressed, beat, stole, and otherwise committed crimes should be punished. Unfortunately, this involved so many people in the regime that the opposition saw any threat of punishment for such crimes would mean an unending struggle and an extremely difficult, if not bloody, transition. It is the eternal problem: how to get rid of the dictator and the dictator’s people, especially when one has chosen for both strategic and moral reasons not to take up arms. Is it better to allow the dictator to go without consequence for all the pain and suffering he has imposed on the people, and thus begin the new democratic system with a sense of great injustice, or is it more important to prosecute the dictator and bring him to justice, but thus delay or endanger entirely the transition and extending indefinitely the period of pain and suffering.
 The experience of Eastern Europe is a mixed one and shows that the dangers are in fact somewhat different than found in the usual authoritarian regime. Compromise was certainly necessary. But in Eastern Europe, the dissidents showed themselves unable to negotiate a “hard bargain” and instead in most cases allowed overly generous terms to the regime. This became known as the “soft landing,” allowing the communists, and especially those in the “power ministries” and otherwise high up in the nomenklatura system, to create new economic monopolies and horde what little wealth remained of the communist period. This has led to limitations on property ownership, delays in econmic reforms and privatization, continued influence over the broadcast media, and an undue influence in politics. 
 There have been few countries where any prosecution of high communist figures has taken place and only in Germany, relying on the existing law of the Federal Republic, has there been any successful prosecutions of communist figures for their actions (individuals involved in the policy of shooting on site anyone who tried to breach the Berlin Wall and periphery have been tried and sentenced). Only in the Czech Republic, Lithuania, and Poland were there any limitations placed on high-ranking officials of the communist party or security services in elected or appointed national office. In fact, however, these laws have affected “informers” — individuals who willingly or under duress agreed to cooperate with the state organs — far more than the communist officials themselves. And oddly, one of the hardest-line Communist Parties to survive the transition is today the leading political party in recent polls in the Czech Republic, where there was considered the hardest law on lustration. In Russia, of course, three straight prime ministers and the current president have been leaders of the security services.
 The most important lesson from these experiences is that the most important aspect of the transition is openness and truth: if any deal is struck, it should be open and its details made public to everyone. The Polish transition was hurt by the suspicion created by behind-back deals, which appeared more and more true as certain high-ranking communist officials grew more and more opulent. More useful and cathartic for the society are truth commissions, opening files, full disclosure, and restricting political activity for those truly responsible for maintaining the regime. But it appears the most important part of any political transition has to be the dismantling of all the key institutions of communist power: the Communist Party, the state organs of security, the state broadcast and print media, and centralized regional administration. 
•   •   •
  All of these common elements of opposition movements in Eastern Europe are characteristics that reflect the opposite of those found in communist society: rigidity, strict hierarchy based on membership and position in the Communist Party, social division, suspicion of “non-believers” and “heretics,” repression, terror, and violence.
  Without having any experience in democracy, the opposition movements in Eastern Europe adopted common characteristics reflecting the ideals of democracy. They did so not only because they were the opposite of the repressive experience of communism but also because they were, by contrast, the only clear alternative to it.

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016

Tư liệu: Nghị viện châu Âu (European Parliament) là gì?

Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Nghi-vien-chau-Au/45152086/162/
--------------
Cơ cấu 
EP là một nghị viện đa quốc gia lớn nhất thế giới có nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động theo phương châm "Hợp nhất từ những khác biệt". Không giống với Hội đồng Bộ trưởng - đại diện cho chính phủ các nước thành EU - EP là cơ quan duy nhất có các thành viên được công dân các nước EU trực tiếp bầu lên để đại diện cho họ. Việc này cũng chỉ được thực hiện từ 1979 đến nay còn trước đó là quốc hội các nước thành viên tiến cử các ứng cử viên của mình vào ghế thành viên EP.

 Cơ cấu của EP gồm:
- Chủ tịch chịu trách nhiệm về các mối quan hệ đối ngoại, chủ trì các kỳ họp của nghị viện... 
- Cục: Điều hành các hoạt động của nghị viện và các cơ quan trực thuộc, bao gồm 1 cục trưởng, 14 cục phó và 5 quan chức cố vấn phụ trách công tác điều hành và tài chính liên quan đến các thành viên nghị viện. 
- Các ủy ban: Gồm nhiều ủy ban khác nhau nhưng trách nhiệm chung là chuẩn bị nội dung cần thiết cho các cuộc họp nghị viện. 
- Ban thư ký: Chịu trách nhiệm tổ chức công việc nghị viện, gồm 1 tổng thư ký và 3.500 viên chức mà 1/3 trong số đó làm công tác dịch thuật cho nghị viện. 

Quyền hạn 
Quyền lực của EP chủ yếu là trên các lĩnh vực lập pháp, quản lý ngân sách, giám sát quyền dân chủ... nghị viện có thể tu chính, phê chuẩn hoặc bác bỏ các đạo luật của EU.  EP làm việc theo nguyên tắc "quyền đồng quyết" với Hội đồng Bộ trưởng. Điều này có nghĩa một dự luật được đưa ra chỉ được thông qua khi cả hai bên cùng gật đầu đồng ý. Nguyên tắc "quyền đồng quyết" được áp dụng trong các lĩnh vực như quyền của người lao động, bảo vệ người tiêu dùng, nhập cư, giáo dục, sức khỏe, nghiên cứu, môi trường và phát triển... ngoại trừ chính sách đối ngoại hay nông nghiệp. 

Ngoài ra, EP và Hội đồng Bộ trưởng cũng cùng chia sẻ quyền lực về quản lý ngân sách chung của EU, cùng giám sát các tổ chức khác của EU, trong đó có Ủy ban châu Âu (EC), bầu Chủ tịch Nghị viện, bổ nhiệm Chủ tịch EC, xét duyệt các tân ủy viên châu Âu, chọn chủ tịch các ủy ban của nghị viện và có thể sa thải toàn bộ thành viên EC. Vào tháng 12 hằng năm, EP, sau khi có chữ ký của Chủ tịch, sẽ thông qua ngân sách của EU. EP có vai trò quan trọng trong việc bổ nhiệm chức thống đốc, phó thống đốc và các thành viên trong Hội đồng Điều hành Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Theo đó, những người này phải được sự phê chuẩn của EP trước khi được Hội đồng Bộ trưởng bổ nhiệm. Hằng năm, Thống đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu phải có trách nhiệm báo cáo các hoạt động tài chính của mình cho EP trong các phiên họp toàn thể. 

Đại bản doanh 
EP có hai trụ sở, một đặt tại Brussels (Bỉ), một ở Strasbourg (Pháp) và bộ phận hành chính ở Luxembourg. Trong một tháng, cứ ba tuần nghị viện làm việc tại Brussels - nơi diễn ra hầu hết các cuộc họp của ủy ban và các nhóm chính trị - tuần còn lại nghị viện làm việc ở Strasbourg. Sự di chuyển liên tục này đã khiến chi phí điều hành của nghị viện tăng cao và các thành viên nghị viện cũng không "khoái" gì mấy vì phải thường xuyên đi lại quá nhiều. Riêng việc EP đặt trụ sở tại Strasbourg còn là một vấn đề về uy tín quốc gia của nước Pháp. Tọa lạc tại khu vực biên giới giữa Đức và Pháp - vốn từng giao tranh 2 lần trong thế kỷ trước - trụ sở Nghị viện châu Âu được coi là một biểu tượng của trật tự châu Âu mới hòa bình. 

Lương bổng 
Một dân biểu EP được trả lương ngang với mức lương của nghị sĩ quốc hội tại nước mà người đó đại diện. Theo cách này, lương tháng của một thành viên EP người Ý gấp 4 lần so với Tây Ban Nha và gấp 14 lần so với thành viên của một số nước mới gia nhập EU... Hiện một dân biểu Ý lãnh gần 11 ngàn euro/tháng, cao nhất trong 25 nước EU, xếp sau là dân biểu Áo (khoảng 7.500 euro/tháng), rồi đến Anh, Đức, Hà Lan... và lãnh lương "bèo" nhất là các nghị sĩ Hungary (khoảng 800 euro/tháng), Slovakia (khoảng 900 euro), Latvia (1.000 euro)... Tuy nhiên, một cách không chính thức, những thành viên có mức lương thấp hơn sẽ nhận thêm một khoản phụ cấp trích từ chi phí điều hành văn phòng - 150 ngàn euro/người/năm - mà không phải giải trình về việc sử dụng khoản tiền ấy như thế nào. Ngoài ra, họ còn được thanh toán toàn bộ tiền vé máy bay đi công tác giữa các nơi. 

Gần đây, đã có đề xuất cải cách hệ thống lương bổng, theo đó tất cả các dân biểu EP đều lãnh một mức lương như nhau là 8.600 euro/tháng. Tuy nhiên, đề xuất này đã bị Đức ngăn cản với lý do mức lương mới quá cao khiến ngân sách "phình to" thêm. 

Uyên Phi Việt Báo (Theo_Thanh Niên ) 

Tư liệu: Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu về VN

Bản dịch chính thức do Ủy ban Công lý và Hòa bình công bố. Tại đây: http://conglyvahoabinh.com/article.aspx?id=10091
------------
NGHỊ QUYẾT CỦA NGHỊ VIỆN CHÂU ÂU VỀ VIỆT NAM (2016/2755(RSP))
Nghị viện châu Âu,
– Chiếu theo các nghị quyết trước đây về tình hình ở Việt Nam;
– Chiếutheo tuyên bố ngày 18 tháng 12 năm 2015 của Phát ngôn viên của Cơ quan Hành động Đối ngoại châu Âu về vụ bắt luật sư Nguyễn Văn Đài;
– Chiếu theo tuyên bố của những người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các nước EU vào ngày 7 tháng 3 năm 2016;
– Chiếu theo thông cáo báo chí của Phát ngôn viên của Cao ủy Nhân quyền LHQ ngày 13 tháng 5 năm 2016 ở Geneva về Thổ Nhĩ Kỳ, Gambia và Việt Nam;
– Chiếu theo tuyên bố ngày 3 tháng 6 năm 2016 của Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về quyền tự do tôn giáo-tín ngưỡng; Juan E. Méndez, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về tra tấn, và đã được Michel Forst, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về tình trạng của những người bảo vệ nhân quyền chuẩn y; Maina Kiai, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về quyền tự do tụ tập và hội họp ôn hòa; David Kaye, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do quan điểm và biểu đạt; Dubravka Šimonović, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về bạo lực nhằm vào phụ nữ cùng nguyên nhân và hậu quả của điều này; và Nhóm Làm việc về Bắt giữ Tùy tiện;
– Chiếu theo Hiệp định Đối tác và Hợp tác giữa EU và Việt Nam, ký ngày 27 tháng 6 năm 2012 và đối thoại nhân quyền thường niên EU-Việt Nam giữa EU và Chính phủ Việt Nam, mà lần gần đây nhất được tổ chức vào ngày 15 tháng 12 năm 2015;
– Chiếu theo các nguyên tắc hướng dẫn của EU về nhân quyền;
– Chiếu theo Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền năm 1948;
– Chiếu theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), mà Việt Nam đã gia nhập năm 1982;
– Chiếu theo Công ước Quốc tế về Xóa bỏ Mọi Hình thức Phân biệt Đối xử với Phụ nữ, mà Việt Nam đã là một nước thành viên từ năm 1982;
– Chiếu theo Công ước Chống Tra tấn của LHQ, mà Việt Nam đã phê chuẩn vào năm 2015;
– Chiếu theo kết quả Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát của Việt Nam trước Hội đồng Nhân quyền LHQ, ngày 28 tháng 1 năm 2014;
– Chiếu theo Quy tắc 135(5) và 123(4), trong Bộ Quy tắc về Các Thủ tục
A. Xét thấy EU coi Việt Nam là một đối tác quan trọng ở châu Á; trong khi năm 2015 đánh dấu kỷ niệm 25 năm quan hệ EU-Việt Nam; xét thấy những mối quan hệ này đã mở rộng nhanh chóng từ thương mại và viện trợ sang một mối quan hệ toàn diện hơn;
B. Xét thấy Việt Nam là một quốc gia độc đảng từ năm 1975, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam (CPV) không chấp nhận mọi sự thách thức đến quyền lãnh đạo của họ và kiểm soát toàn bộ Quốc hội và tòa án;
C. Xét thấy chính quyền Việt Nam đã đàn áp tàn bạo các cuộc biểu tình diễn ra trên toàn quốc trong tháng 5 năm 2016 sau một thảm họa sinh thái tàn sát vựa cá của đất nước;
D. Xét thấy một luật sư và nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam, bà Lê Thu Hà, đã bị bắt vào ngày 16 tháng 12 năm 2015, cùng lúc với việc một luật sư nhân quyền nổi tiếng, ông Nguyễn Văn Đài, bị bắt vì tội tuyên truyền chống nhà nước; xét thấy vào ngày 22 tháng 2 năm 2016, nhà hoạt động nhân quyền Trần Minh Nhật đã bị một sĩ quan an ninh tấn công tại nhà riêng ở huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; xét thấy ông Trần Huỳnh Duy Thức, bị bỏ tù vào năm 2009 sau một phiên tòa không được bào chữa đúng nghĩa, nhận bản án 16 năm tù và 5 năm quản chế; xét thấy đang có mối quan ngại lớn về tình trạng sức khỏe suy yếu của Hòa thượng Thích Quảng Độ, hiện đang bị quản thúc tại gia;
E. Xét thấytại Việt Nam các chính đảng, công đoàn và tổ chức nhân quyền độc lập đêu bị cấm, việc tụ tập nơi công cộng buộc phải được sự cho phép chính thức; xét thấy một số cuộc biểu tình ôn hòa đã bị giám sát chặt chẽ, các nhà hoạt động nổi bật bị quản thúc, và các cuộc biểu tình khác nữa đã bị phá vỡ hoặc bị cấm diễn ra ngay từ đầu;
F. Xét thấy công an đã triển khai hàng loạt biện pháp để ngăn chặn và trừng phạt những người tham gia biểu tình, dẫn đến một loạt vi phạm nhân quyền, gồm cả tra tấn và các hình thức đối xử và trừng phạt tàn bạo, phi nhân tính, hạ nhục nhân phẩm khác, cũng như dẫn đến những vi phạm về quyền tụ tập ôn hòa và quyền tự do đi lại; xét thấy điều kiện giam giữ và đối xử với tù nhân rất khắc nghiệt, đã có báo cáo về ít nhất 7 trường hợp chết tại nơi giam giữ trong năm 2015, nghi là bị công an tra tấn hoặc ngược đãi dưới các hình thức khác;
G. Xét thấy mặc dù Việt Nam đã chấp nhận 182 trong tổng số 227 khuyến nghị từ Hội đồng Nhân quyền LHQ trong phiên Kiểm điểm Định kỳ tháng 6 năm 2015, nhưng lại bác bỏ những khuyến nghị như: trả tự do cho tù chính trị và những người bị giam cầm mà không có cáo buộc, không được xét xử; cải cách tư pháp để chấm dứt tình trạng bỏ tù vì nguyên nhân chính trị; thành lập một thiết chế nhân quyền quốc gia độc lập và tiến hành các bước khác nhằm thúc đẩy sự tham gia của người dân; xét thấy, tuy vậy, gần đây Việt Nam cũng đã cho phép các tổ chức nhân quyền quốc tế được gặp đại diện của phía đối lập và các quan chức nhà nước – lần đầu tiên kể từ khi kết thúc chiến tranh;
H. Xét thấy Việt Nam nhất quyết viện dẫn các điều luật về “an ninh quốc gia” với ngôn từ mơ hồ trong Bộ luật Hình sự, ví dụ “tuyên truyền chống nhà nước”, “phá hoại”, hay “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”, để kết tội và bịt miệng những người bất đồng chính kiến, người bảo vệ nhân quyền và người chỉ trích chính quyền;
I. Xét thấy vào tháng 5 năm 2016, một phóng viên BBC là ông Jonathan Head đã bị cấm đưa tin về chuyến đi của Tổng thống Mỹ Obama sang Việt Nam, và bị thu hết giấy tờ mà chẳng có một lý do nào được chính thức đưa ra; xét thấy ông Kim Quốc Hoa, cựu tổng biên tập báo Người Cao Tuổi, đã bị thu thẻ nhà báo vào đầu năm 2015, sau đó bị khởi tố theo Điều 258 Bộ luật Hình sự, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ, sau khi tờ báo vạch trần một số vụ quan chức tham nhũng;
J. Xét thấy Việt Nam xếp thứ 175 trên 180 trong bảng Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2016 của tổ chức Phóng viên Không Biên giới, toàn bộ báo in và phát thanh truyền hình bị kiểm soát bởi CPV, quân đội hoặc các cơ quan chính phủ khác; xét thấy Nghị định 72 ban hành năm 2013 xiết chặt hơn nữa truyền thông xã hội và blog, Nghị định 174 năm 2014 áp đặt những hình phạt nặng nề lên những người sử dụng Internet và truyền thông xã hội để lên tiếng “tuyên truyền chống nhà nước” hay làm “phản động”;
K. Xét thấy quyền tự do tôn giáo-tín ngưỡng bị đàn áp và rất nhiều nhóm tôn giáo thiểu số bị ngược đãi nặng nề, gồm cả tín đồ Công giáo và các tôn giáo không được thừa nhận như Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một số nhà thờ Tin Lành, và thành viên của nhóm tôn giáo thiểu số người Thượng, như Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về tự do tôn giáo-tín ngưỡng đã quan sát thấy khi thực hiện chuyến thăm Việt Nam;
L. Xét thấy vào tháng 4 năm 2016, Việt Nam thông qua Luật Tiếp cận Thông tin và Luật Báo chí sửa đổi, hạn chế quyền tự do biểu đạt và thắt chặt kiểm duyệt, cũng như thông qua các quy định cấm biểu tình trước cổng tòa trong quá trình xét xử;
M. Xét thấy xếp hạng của Việt Nam trong bảng Chỉ số Khoảng cách Giới của Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã rơi từ vị trí 42 năm 2007 xuống 83 trong năm 2015; và xét thấy Công ước LHQ về Xóa bỏ Mọi Hình thức Phân biệt Đối xử nhằm vào Phụ nữ đã chỉ trích chính quyền Việt Nam vì không nắm được “khái niệm bình đẳng giới thực chất”; xét thấy, mặc dù có một số tiến bộ, nhưng bạo lực gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, mại dâm, HIV/AIDS và các xâm hại tình dục và quyền sinh sản vẫn còn là những vấn đề lớn ở Việt Nam;
N. Xét thấy Hiệp định Đối tác và Hợp tác Toàn diện là nhằm thiết lập một mối quan hệ đối tác hiện đại, rộng khắp và các bên cùng có lợi, dựa trên việc chia sẻ những lợi ích chung và nguyên tắc chung như bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nhà nước pháp quyền và nhân quyền;
O. Xét thấy EU đã khen ngợi Việt Nam về những tiến bộ không ngừng trong các quyền xã hội-kinh tế, nhưng cũng bày tỏ quan ngại về tình hình các quyền chính trị và dân sự; tuy nhiên, xét thấy tại đối thoại nhân quyền thường niên, EU đã nêu vấn đề hạn chế quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí và tự do tụ tập;
P. Xét thấy EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam; xét thấy EU, cùng với các nước thành viên, là nhà cung cấp viện trợ phát triển chính thức lớn nhất cho Việt Nam, và xét thấy EU sẽ tăng 30% ngân sách cho việc này, lên 400 triệu euro, trong giai đoạn 2014-2020;
Thốngnhất quyết nghị như sau:
1. Ủng hộ việc thắt chặt quan hệ đối tác và cuộc đối thoại nhân quyền giữa EU và Việt Nam; hoan nghênh việc Việt Nam phê chuẩn Công ước Chống Tra tấn của LHQ vào năm ngoái;
2. Kêu gọi chính quyền Việt Nam chấm dứt ngay lập tức mọi hành động sách nhiễu, đe dọa, ngược đãi các nhà hoạt động nhân quyền, hoạt động xã hội và bảo vệ môi trường; nhất quyết yêu cầu chính quyền tôn trọng quyền tụ tập ôn hòa của những nhà hoạt động này, và trả tự do cho bất kỳ ai còn đang bị giam cầm một cách sai trái; yêu cầu thả ngay lập tức tất cả các nhà hoạt động đã bị bắt giữ và cầm tù oan uổng như Lê Thu Hà, Nguyễn Văn Đài, Trần Minh Nhật, Trần Huỳnh Duy Thức và Thích Quảng Độ;
3. Bày tỏ quan ngại sâu sắc về mức độ bạo lực ngày càng gia tăng nhằm vào những người dân Việt Nam muốn biểu đạt sự phẫn nộ của họ về nạn cá chết hàng loạt dọc bờ biển miền Trung; yêu cầu công khai kết quả các cuộc điều tra về thảm họa môi trường này và công khai danh tính những người phải chịu trách nhiệm; kêu gọi chính quyền Việt Nam tôn trọng quyền tự do tụ tập theo đúng những nghĩa vụ nhân quyền quốc tế của họ;
4. Lên án việc kết tội và xử án nặng đối với các nhà báo và blogger Việt Nam như ông Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy, và ông Đặng Xuân Diệu, và kêu gọi trả tự do cho họ;
5. Lấy làm tiếc về tình trạng vi phạm nhân quyền tiếp diễn ở Việt Nam, gồm cả đe dọa, sách nhiễu, bắt bớ tùy tiện, xử tù nặng, xét xử không công bằng, khủng bố các nhà hoạt động chính trị, nhà báo, blogger, người bất đồng chính kiến và người bảo vệ nhân quyền, cả trên mạng lẫn ngoài đời, rõ ràng vi phạm các nghĩa vụ nhân quyền quốc tế của Việt Nam;
6. Bày tỏ quan ngại về việc Quốc hội đang xem xét thông qua Luật về Hội và Luật Tôn giáo-Tín ngưỡng không tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền tự do hiệp hội và quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng;
7. Yêu cầu Việt Nam đẩy mạnh hợp tác với các thiết chế nhân quyền và nâng cao mức độ tuân thủ cơ chế báo cáo cho các cơ quan theo công ước (treaty bodies – các cơ quan được thành lập và hoạt động dựa trên các công ước quốc tế về nhân quyền – ND); nhắc lại lời kêu gọi phải có sự tiến bộ trong việc thực hiện những khuyến nghị của Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát;
8. Nhắc lại lời kêu gọi xem xét lại một số điều luật cụ thể trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, vốn được dùng để đàn áp tự do biểu đạt; lấy làm tiếc rằng không ai trong số 18000 tù nhân được ân xá dịp 2 tháng 9 năm 2015 là tù chính trị; lên án chế độ giam giữ và nhà tù ở Việt Nam, và yêu cầu các cấp chính quyền Việt Nam bảo đảm quyền tiếp cận luật sư không bị hạn chế;
9. Yêu cầu chính quyền Việt Nam thiết lập các cơ chế giải trình hiệu quả về hoạt động của lực lượng cảnh sát và an ninh, nhằm mục đích chấm dứt lạm dụng tù nhân hay người bị tạm giam tạm giữ;
10. Kêu gọi chính quyền chấm dứt ngược đãi tôn giáo và sửa đổi luât pháp về quy chế của các cộng đồng tôn giáo, nhằm tái thiết tình trạng hợp pháp của các tôn giáo không được thừa nhận; kêu gọi Việt Nam hủy bỏ dự thảo thứ 5 của Luật Tôn giáo và Tín ngưỡng, hiện đang được thảo luận ở Quốc hội, và chuẩn bị một dự thảo mới tuân thủ các nghĩa vụ của Việt Nam theo Điều 18 Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị; kêu gọi trả tự do cho các chức sắc tôn giáo, gồm Mục sư Nguyễn Công Chính, bà Trần Thị Hồng và ông Ngô Hào;
11. Yêu cầu Việt Nam chống phân biệt đối xử nhằm vào phụ nữ, bằng cách đưa ra các luật chống nạn buôn người, và bằng những việc làm cụ thể hướng đến kiểm soát bạo lực trong gia đình và nạn vi phạm quyền sinh sản;
12. Khen ngợi Việt Nam về vai trò đi đầu ở châu Á trong lĩnh vực quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính, chuyển giới và liên giới tính (LGBTI), cụ thể là việc gần đây đã thông qua luật về hôn nhân và gia đình trong đó cho phép người đồng tính kết hôn;
13. Kêu gọi Ủy ban Liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền thanh tra tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đặc biệt tập trung vào quyền tự do biểu đạt, và có khuyến nghị tới quốc gia này;
14. Kêu gọi Chính phủ Việt Nam gửi lời mời thường xuyên (standing invitation) đến Thủ tục Đặc biệt của LHQ, và cụ thể là đến Báo cáo viên Đặc biệt về quyền tự do biểu đạt và Báo cáo viên Đặc biệt về tình trạng của những người bảo vệ nhân quyền;
15. Kêu gọi EU tăng cường đối thoại chính trị về nhân quyền với Việt Nam theo Hiệp định Đối tác và Hợp tác Toàn diện;
16. Đề nghị Phái đoàn EU sử dụng tất cả các công cụ thích hợp để giúp Chính phủ Việt Nam trong các hành động trên, và hỗ trợ cho những người bảo vệ nhân quyền; nhấn mạnh tầm quan trọng của đối thoại nhân quyền giữa EU và chính quyền Việt Nam, đặc biệt nếu sau đối thoại này là thực thi thực sự; nhấn mạnh rằng đối thoại phải hữu hiệu và có kết quả;
17. Thừa nhận nỗ lực của chính quyền Việt Nam trong việc thắt chặt quan hệ EU-ASEAN và sự ủng hộ của họ đối với vai trò thành viên của EU trong Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á;
18. Biểu dương việc Việt Nam đạt được với một con số ấn tượng các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, và kêu gọi Ủy ban và Phó Chủ tịch Ủy ban/ Đại diện Cao cấp của Liên hiệp Chính sách Đối ngoại và An ninh, tiếp tục hỗ trợ chính quyền Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ và tổ chức XHDS trong nước, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển sau năm 2015;
19. Đề nghị Chủ tịch chuyển nghị quyết này đến Phó Chủ tịch Ủy ban/ Đại diện Cao cấp của Liên hiệp Chính sách Đối ngoại và An ninh, các chính phủ và quốc hội của các nước thành viên, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam, chính phủ và quốc hội các nước thành viên ASEAN, Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc và Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
-----------------